Tên Tiếng Việt: Bạch cập.
Tên khác: Liên cập thảo; Bạch cấp; Bạch căn; Cam căn; Hát tất đa; Võng lạt đa; Nhược lan lan hoa; Từ lan; Trúc túc giao; Tuyết như lai; Tử tuệ căn; Tử lan căn.
Tên khoa học: Bletilla striata (Thunb.) Reichb.f.
Bạch cập là một loài Lan địa sinh, sống nhiều năm, mọc hoang và được trồng nơi ẩm ướt, mát. Thân rễ phát triển, mang nhiều vảy, mọc bò ngang chia 2 – 3 nhánh, mỗi nhánh hình cầu dẹt. Lá mọc từ thân rễ lên, khoảng 3 – 5 lá hình mũi mác dài 18 – 40 cm, rộng 2,5 – 5 cm, có nhiều nếp nhăn dọc chiều dài các gân song song.
Cây ra hoa màu hồng tím, mọc thành chùm ở ngọn, mang 3 – 6 hoa. Lá bắc cùng màu, rụng sớm. Bao hoa có lá đài và cánh hoa giống nhau, cánh môi có màu tím sẫm, đầu mép uốn lượn. Nhị mang bao phấn có các phấn khối xếp thành 2 mảng. Quả dạng hình thoi, có 6 cạnh.
Phân bố:
Bạch cập phân bố ở những nơi hoang dại, khí hậu mát mẻ như các tỉnh miền núi phía Bắc như Cao Bằng, Lạng Sơn, Lào Cai, Yên Bái, Hà Giang, Tuyên Quang.
Thu hái và chế biến:
Tiến hành thu mẫu vào mùa thu, lấy thân rễ, rửa sạch. Sau đó, bỏ các rễ con, luộc hoặc đồ cho đến khi thấy phần lõi không còn màu trắng, phơi khô tương đối rồi bóc vỏ, sau đó phơi tiếp đến khô.
Hoặc có thể lấy Bạch cập hấp cho mềm đều, sau đó cắt lát mỏng và phơi khô.
Thân rễ phơi hay sấy khô của cây Bạch cập (Rhizoma Bletilla). Thân rễ hình cầu dẹt, không đều, có 2 – 3 ngạnh giống cái móng, dài 1,5 – 5cm, dày 0,5 – 1,5cm. Mặt ngoài trắng ngà hoặc trắng xám, có các vòng đồng tâm, và các sẹo của rễ con là những nốt màu nâu; sẹo của thân thì nhô lên cao, bên dưới thì có vết nối với phần thân rễ khác. Phần thân rễ này khá cứng, khó bẻ gãy, mặt cắt ngang có màu trắng ngà, không mùi, dính và dẻo.
Bột dược liệu sẽ có màu trắng ngà đến vàng nhạt, hơi có ánh nâu.
Bạch cập chứa tinh dầu, tinh bột và chất nhầy. Chất nhầy là các polysaccarid (bletilamanan) bao gồm manose, glucose, ngoài ra còn có batatasin và 3’ – 0 – methylbatatasin.
Bạch cập có tính khổ, cam, sáp, vị hàn, vào kinh phế vị. Tác dụng thu liễm chỉ huyết, sinh cơ tiêu sừng. Được dùng điều trị lao phổi, ho ra máu, nôn ra máu, chấn thương chảy máu, da nứt nẻ, nhọt độc, viêm tấy.
Ngày nay, Bạch cập chủ yếu được dùng theo kinh nghiệm dân gian để làm thuốc cầm máu, trong chảy máu cam, tiêu ra máu, đau mắt đỏ, đắp lên chỗ mụn nhọt, sưng tấy, bỏng.
Biphenanthren phân lập từ Bạch cập có tác dụng kháng khuẩn trên một vài trường hợp nhiễm khuẩn thông thường.
Điều trị xuất huyết đường tiêu hóa, xuất huyết đường hô hấp trên.
Mỗi ngày sắc từ 6 – 15g để dùng.
Đối với dạng thuốc viên hoặc thuốc bột thì dùng từ 3 – 6g/ngày.
Có thể bôi và đắp ngoài với lượng thích hợp.
Chữa thổ huyết
Mỗi ngày, tán nhỏ 10 – 15g thân rễ bạch cập rồi hòa với nước cơm hay nước cháo để uống.
Bạch cập 2 phần, Tam thất 1 phần. Tán nhỏ rồi hòa vào nước cơm hoặc nước cháo để uống.
Liều dùng: 4 – 8g/ngày, chia thành 2 – 4 lần.
Chữa phổi kết hạch to, ho gà, khạc ra máu, lao hang
Mỗi ngày uống > 12 g Bạch cập đã tán nhỏ. Duy trì trong nhiều ngày.
Chảy máu cam
Tán nhỏ 1 – 3g Bạch cập, hòa với nước, đắp lên sống mũi và uống.
Chữa bỏng do lửa
Trộn Bạch cập đã tán nhỏ với dầu mè rồi bôi lên vết bỏng.
Băng bó vết thương do đâm chém
Bạch cập 20g, Thạch cao 20g. Nghiền nhỏ cả hai thứ rồi đắp lên vết thương sẽ giúp nhanh chóng đóng miệng vết thương.
Chữa ung nhọt sưng đau
Bạch cập tán nhỏ, trộn với ít nước rồi đắp lên ung nhọt.
Lưu ý khi sử dụng Bạch cậplà không kết hợp vớiÔ đầu (ô đầu, phụ tử, thiên hùng).
Nguồn Tham Khảo:
Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi
Cây thuốc và động vật làm thuốc (Tập 1)
Tuệ Tĩnh toàn tập – Nguyễn Bá Tĩnh
Dược điển Việt Nam 5
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.