Tên Tiếng Việt: Bán hạ.
Tên khác:
Củ chóc; lá Ha chìa; cây Chóc chuột; Chưởng diệp bán hạ…
Tên khoa học:
Bán hạ Việt Nam: Typhonium divaricatum Decne (Arum divaricatum L., Arum trilobatum Lour), Typhonium trilobatum (Schott).
Cây Bán hạ Trung Quốc: Pinellia ternata (Thunb) Breiter hay Pinellia tuberifera Tenore.
Cây Bán hạ Việt Nam (Typhpnium trilobatum Schott) là một loại cỏ không có thân, có củ hình cầu đường kính tới 2cm. Lá hình tim hay hình mác, hoặc chia ba thùy dài 4 – 15cm, rộng 3,5 – 9cm. Bông mo với phần hoa đực dài 5 – 9mm, phần trần dài 17 – 27mm. Quả mọng, hình trứng dài 6mm.
Cây Bán hạ Trung Quốc (Pinellia ternata Thunb) Breiter khác cây Bán hạ Việt Nam ở chỗ thùy xẻ sâu rõ rệt hơn. Mặc dù gọi Bán hạ Trung Quốc để phân biệt Bán hạ Việt Nam, nhưng có người nói thấy cây này mọc ở Lào Cai nhưng chưa được khai thác.
Cây chưởng diệp Bán hạ (Pinellia pedatisecta Schott) khác những cây trên ở lá chia thành chín thùy khía sâu.
Phân bố:
Cây Bán hạ Việt Nam mọc hoang ở khắp những nơi đất ẩm ở nước ta từ Nam chí Bắc. Còn mọc ở Ấn Độ, Trung Quốc, Nhật Bản.
Thu hái:
Người ta đào rễ (củ), rửa sạch đất cát, lựa củ to (gọi là nam tinh), củ nhỏ (gọi là Bán hạ). Có thể dùng tươi (thường chỉ dùng giã đắp lên nơi rắn độc cắn), thường dùng khô có chế biến. Bán hạ thu hái từ mùa hạ đến thu đông.
Chế biến:
Đào về rửa sạch đất cát, đãi sạch vỏ mỏng ngoài, ngâm nước phèn cho sạch nhớt, phơi khô là được. Có nhiều cách chế biến mục đích theo quan niệm đông y để giảm bớt độ độc (tẩm cam thảo) hay tăng tác dụng chữa ho (tẩm gừng hay bồ kết). Một số cách chế biến thường thấy:
Tẩm cam thảo và bồ kết: Củ chóc (Bán hạ Việt Nam) rửa sạch ngâm nước trong 2 – 3 ngày, mỗi ngày thay nước một lần cho đến khi nước trong hẳn. Cứ 1kg Bán hạ thêm 0,100kg Cam thảo, 0,100kg Bồ kết và nước cho đủ ngập rồi đun cho đến khi cạn hết nước, vớt ra phơi hay sấy khô. Nguyên nhân chưa rõ, nhưng chúng ta biết Cam thảo có tác dụng giảm độc, trừ ho, Bồ kết có tác dụng chữa ho.
Tẩm gừng và phèn chua: Củ Bán hạ cũng rửa sạch và ngâm nước như trên cho đến khi nước trong. Cứ 1kg Bán hạ thì thêm 50g phèn chua và 300g gừng tươi giã nhỏ thêm nước vào cho ngập. Ngâm trong 24 giờ, lấy ra rửa sạch. Đồ cho chín, thái mỏng, lại tẩm nước gừng: Cứ 1kg Bán hạ thêm 150g gừng tươi giã nát, thêm 1 ít nước, vắt lấy nước và cho Bán hạ vào ngâm một đêm. Lấy ra sao vàng là dùng được. Phèn chua có tác dụng làm cho hết nhớt.
Chúng ta biết rằng gừng cũng có tác dụng chữa ho. Còn cách chế biến có cần như vậy không thì phải nghiên cứu thêm.
Trong Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân có ghi về chế Bán hạ như sau: Phàm dùng Bán hạ , phải đem ngâm nước nóng chừng nửa ngày mới hết nhớt, nếu không thời có độc, uống ngứa cổ không chịu được. Trong các bài thuốc dùng Bán hạ kèm Sinh khương (gừng tươi) là vì Sinh khương chế được độc của Bán hạ. Trong bài thuốc Bán hạ Dược điển Trung Quốc 1953 thì chỉ ghi Bán hạ không chế dùng cùng với Sinh khương.
Theo tài liệu cổ (Lôi Học tức Lôi Công) cũng ghi theo Bản thảo cương mục, người ta chế Bán hạ như sau: Bán hạ 120g, Bạch giới tử 80g, Dấm chua 200g, cho giới tử giã nhỏ vào dấm quấy đều, thêm Bán hạ vào ngâm một đêm. Lấy ra rửa sạch hết nhớt mà dùng.
Một phương pháp khác: Rửa sạch Bán hạ, dùng nước nóng ngâm, thay nước luôn cho hết nhớt, thái mỏng, tẩm nước gừng, sấy thật khô mà dùng. Có thể tán nhỏ thành bột trộn với nước ép gừng, phơi khô dùng.
Như vậy phương pháp ghi trong sách cổ cũng gần như phương pháp ta thường làm nhưng chỉ thêm Bạch giới tử cũng là một vị thuốc chữa ho.
Do phương pháp bào chế Bán hạ chưa thống nhất như vậy, cho nên khi nghiên cứu cần phải chú ý.
Rễ củ.
Bán hạ Việt Nam và chưởng diệp Bán hạ chưa thấy có tài liệu nghiên cứu.
Bán hạ Trung Quốc, theo Lý Thừa Cố (Trung Quốc dược dụng thực vật đồ giám) có một ít tinh dầu 0,003 – 0,013%, một chất alkaloid, ancol, chất cay, phytosterol. Ngoài ra còn dầu béo, tinh bột, chất nhầy.
Theo Quốc lập Sơn Đông đại học, trong Bán hạ có chất cay dễ tan trong ether etylic, dung dịch trong ether có phản ứng alkaloid, nhiệt có tác dụng giảm độ cay.
Bán hạ còn là vị thuốc dùng theo kinh nghiệm dân gian để chữa phụ nữ có thai bị nôn mữa hoặc chữa nôn trong trường hợp viêm dạ dày mạn tính.
Nó còn là một vị thuốc chữa ho (làm long đờm), chữa nhức đầu, đau dạ dày mạn tính.
Trong sách cổ ghi về tính chất và tác dụng Bán hạ nhu sau: Vị cay, ôn, có độc, có tác dụng táo thấp (làm khô ẩm thấp), hóa đờm, giáng nghịch (làm hạ hơi đưa lên) hết nôn. Dùng trong những trường hợp nôn mửa, đờm thấp, hen suyễn, đầu nhức, đầu váng, không ngủ, dùng ngoài có tác dụng tiêu thũng. Phụ nữ có thai dùng phải cẩn thận. Vị bán hạ phản với ô đầu, thảo ô.
Tác dụng chữa ho: Theo báo Trung Hoa y học tạp chí, sau khi dùng 1 ml cồn iot 1% gây ho cho mèo, rồi dùng nước sắt Bán hạ 20% (1ml tương ứng 0,2 g Bán hạ) thì thấy liều 0,6g Bán hạ trên 1 kg thể trọng tác dụng chữa ho rõ rệt. Liều ấy cho kết quả tương đương liều codein phosphat 1g/1 kg.
Theo Linh Mộc Đạt (Nhật Bản, 1931) tác dụng của Bán hạ là do ancol và alkaloid bay hơi có tác dụng ức chế trung khu và mạt tiêu thần kinh.
Tác dụng chống nôn: Dùng đường tiêm dung dịch Bán hạ, tác dụng chống nôn do phytosterol của Bán hạ. Tuy nhiên nếu uống bán hạ sống ngược lại gây nôn, phải chăng đun nóng có tác dụng làm mất chất gây nôn trong Bán hạ theo sách cổ.
Độc tính: Theo dược lý sinh dược học (Nhật Bản 1933) dịch chiết cồn Bán hạ gây co vật cơ bắp mà chết. Tác dụng này giống như do tác dụng hưng phấn của Bán hạ đối với mạt tiêu thần kinh.
Ngày dùng 1,5 – 4g; có thể dùng tới liều từ 4 – 12g Bán hạ đã chế biến hoặc hơn nữa. Dùng ngoài tùy theo liều lượng và dùng tươi, giã nát đắp lên nơi đau.
Đơn thuốc có vị Bán hạ ghi trong Dược điển Trung Quốc 1953: Bột Bán hạ 80g, bột Gừng sống 50g, nước 3000ml đun sôi và sắc cho đến khi cạn còn 1000 ml, lọc qua bông và dùng nước cất pha thêm cho đủ 1000ml. Trung bình mỗi lần dùng 100 – 300ml, trung bình mỗi ngày dùng 200 – 600ml tương ứng 8 – 24g hoặc 16 – 18g bán hạ. Chữa ho và nôn mửa khi có thai.
Tiền Bán hạ da phục linh thang (đơn thuốc của Trương Trọng Cảnh): Bán hạ 8g, Phục linh 6g, Sinh khương 3g, nước 300ml, sắc còn 100ml. Uống dần trong ngày, chữa phụ nữ có thai bị nôn mửa.
Đơn khác dùng chữa hen suyễn, nặng mặt, nằm không được, muốn nôn ọe, bụng dưới nôn nao, cũng dùng chữa nôn: Bán hạ chế 40g, Sinh khương 20g, nước 600ml, sắc còn 200ml, chia nhiều lần uống trong ngày. Liều dùng Bán hạ ở đây cao hơn, nên uống từ từ, uống uống vừa cảm nhận, thấy chịu thì uống nữa.
Trẻ con ngất bất tỉnh: Sinh Bán hạ 4g, Bồ kết 2g, tất cả tán nhỏ thổi vào mũi.
Một số lưu ý khi bạn dùng bán hạ:
Phụ nữ có thai dùng phải cẩn thận.
Nguồn Tham Khảo:
1. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
2. Cây thuốc và động vật làm thuốc Việt Nam.
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.