Tên tiếng Việt: Bằng lăng tía.
Tên khác: Bằng lăng ổi, Thao lao, Săng lẻ, Rờ pa, Tơ ruôn (Ba Na).
Tên khoa học: Lagerstroemia calyculata Kurz. Họ: Tử vi (Lythraceae).
Cây gỗ to, cao 20 – 30 m. Cành non có lông hình sao màu hung và có cạnh, cành già hình trụ, nhẵn. Lá mọc so le, hình mác, rộng 2 – 5 cm, dài 7 – 14 cm, đầu nhọn, gốc thuôn, phiến dài; mặt trên lúc đầu có lông hình sao, nhẵn; mặt dưới lông dày hơn, gân lá chằng chịt tạo thành mạng rõ; cuống lá ngắn, có lông mịn.
Cụm hoa tận cùng mọc thành chùm,dài 12 – 20 cm, có lông màu vàng; lá bắc rõ; hoa màu trắng tập hợp 6 – 8 cái ở một mấu, đài hình chuông, có lông và có 6 thuỳ; 6 cánh hoa đều có móng; nhị nhiều gần đều nhau; bầu có lông ở đỉnh và vòi nhụy dài. Quả nang, có hình trứng. Quả dài 1,2 cm, nằm sâu 1/3 trong đài, đầu có mũi nhọn, khi chín nứt thành 6 mảnh.
Mùa hoa quả: Tháng 5 – 7.
Chi Lagerstroemia L. gồm các đại diện là cây gỗ và cây bụi, chúng phân bố chủ yếu ở Australia và vùng nhiệt đới Đông – Nam Á. Một số loài cho gỗ có giá trị, còn các loài khác có hoa đẹp nên thường được trồng làm cảnh.
Ở Việt Nam, hiện có khoảng 20 loài, phân bố ở các vùng núi, tập trung nhất từ tỉnh Nghệ An trở vào. Bằng lăng tía phân bố tương đối phổ biến ở một số tỉnh miền Bắc và miền Nam như Thanh Hoá, Sơn La, Quảng Bình, Nghệ An, các tỉnh ở Tây Nguyên và Tây Nam bộ. Độ cao phân bố của bằng lăng tía thường dưới 800 m. Ngoài ra, cây còn thấy nhiều ở Lào và Campuchia.
Bằng lăng tía là loại cây gỗ kích thước lớn, thường mọc rải rác. Tuy nhiên, đôi khi chúng cũng mọc khá tập trung, cùng một số loài cây: Cratoxylum polyanthum, Shorea obtusa, Careya sphaerica, Anisoptera costata… tạo nên kiểu rừng nửa rụng lá nhiệt đới, một kiểu rừng điển hình ở Việt nam. Bằng lăng tía thường mọc trên các loại đất đỏ bazan, dễ thấm nước và có hàm lượng mùn ở mức trung bình. Cây ra hoa quả hàng năm nhiều. Khả năng tái sinh từ hạt và từ gốc sau khi chặt là khá tốt. Bằng lăng tía thường xuyên được khai thác để lấy gỗ, củi.
Bộ phận sử dụng của bằng lăng tía chủ yếu là lấy gỗ loại gỗ hồng sắc. Người dân miền Nam thường dùng vỏ thân và lá dùng làm thuốc chữa bỏng, lỵ.
Vỏ cây bằng lăng tía chứa các thành phần hóa học như: Alkaloid, flavonoid, tanin, saponin, coumarin, và sterol. Tanin trong vỏ cây phần lớn là tanin catechic (khoảng 23%) và một lượng nhỏ tanin gallic (khoảng 7%). Ngoài ra còn có đường, gôm, pectin và chất nhầy. Tỷ lệ tanin trong lá thấp hơn trong vỏ thân, còn tỷ lệ gôm và chất nhầy trong lá cao hơn trong vỏ thân.
Không có thông tin.
Trong thử nghiệm in vitro, cao lỏng vỏ cây bằng lăng tía có tác dụng ức chế sự phát triển của các vi khuẩn theo theo thứ tự hoạt tính giảm dần như sau: Shigella shigae. Bacillus subtilis, Proteus vulgaris. Sh. flexneri, Sh. sonnei, Salmonella typhi, Escherichia coli, Staphylococcus aureus, Pseudomonas aeruginosa.
Bằng cách sử dụng phương pháp pha loãng, đã xác định nồng độ ức chế tối thiểu của cao lỏng vỏ cây bằng lăng tía đối với những nấm gây bệnh ngoài da như: Epidermophyton inguinale (1:1), Trichophyton rubrum (1,5:1), Trichophyton gypseum (1,5:1) và Candida albicans (2:1).
Tanin có tác dụng kháng khuẩn là thành phần chủ yếu trong vỏ và lá cây bằng lăng tía. LD50 trong thử nghiệm cho uống trên chuột nhắt trắng của vỏ cây là 60 g/kg, và của lá cây là 112,5 g/kg. Trong thí nghiệm in vitro trên những chủng nấm phân lập từ người bệnh, cao nước vỏ bằng lăng tía có tác dụng ức chế đối vối 4 loại nấm đã nêu ở trên, tác dụng mạnh nhất đối với Epidermophyton inguinale.
Cao vỏ cây bằng lăng tía chỉ kìm hãm sự phát triển của nấm trong một số ngày mà không diệt nó. Đã áp dụng cồn vỏ cây bằng lăng tía 30% để điều trị bênh nấm ngoài da trên 60 bệnh nhân và đạt tỷ lệ khỏi 86%. Đã áp dụng viên bào chế từ cao vỏ cây điều trị lỵ trực khuẩn và đạt hiệu quả điều trị rất tốt đối với lỵ nhẹ, hiệu quả hơn hẳn tetracyclin và cloramphenicol, tương đương với bactrim.
Đối với bệnh lỵ mức độ vừa, thuốc không có hiệu lực bằng bactrim, và có hiệu lực tương đương tetracyclin và chloramphenicol. Ngoài ra, bằng lăng tía còn được áp dụng trong điều trị bỏng ở các mức độ khác nhau, cao đặc từ vỏ cây bằng lăng tía có tác dụng làm se khô và tạo màng thuốc che phủ trên các vết thương bỏng mà không cần phải băng, nên tránh được đau đớn cho người bệnh khi thay băng. Đồng thời cao đặc này còn có tác dụng làm giảm nhiễm khuẩn, làm rụng nhanh những hoại tử ở vết bỏng.
Áp dụng điều trị cho một nhóm bệnh nhân bỏng có diện bỏng 5 – 15% cơ thể, kết quả thấy cao thuốc tạo được màng thuốc chữa bỏng nông, gây xót; đối với bỏng sâu hơn, cao bằng lăng tía không tạo được màng thuốc liên tục, màng dễ bị rạn nứt nên tác dụng kém hơn.
Một số loài khác thuộc chi Lagerstroemia đã được nghiên cứu sàng lọc dược lý trên động vật thực nghiệm ở Ấn Độ. Cả cây trừ rễ của L. speciosa có tác dụng chống lại siêu vi khuẩn bệnh Ranikhet và nó cũng có tác dụng gây giảm huyết áp.
Để chữa các bệnh nấm ngoài da, nên dùng cao chiết với cồn 60% vỏ cây bằng lăng tía 15% bôi trên da ở nơi bị bệnh.
Để chữa lỵ, dùng vỏ cây bằng lăng tía nấu thành cao, rồi bào chế thành viên để uống. Điều trị lỵ trực khuẩn: Mỗi ngày uống từ 10 – 15 viên, mỗi viên tương đương khoảng 1,5 g dược liệu khô. Thời gian điều trị 10 – 15 ngày, thời gian hết khuẩn Shigella ngắn hơn so với dùng cloroxit hay ganidan. Đối với trẻ em dưới 5 tuổi, nên dùng với liều 3 – 6 viên/ngày, dùng liên tục trong 5 – 7 ngày.
Điều trị bỏng: Dùng cao đặc vỏ cây bằng lăng tía bôi lên những vết thương bị bỏng để che phủ vết thương mà không cần phải băng. Đối với vết thương phần mềm, cũng làm như vậy sau khi đã rửa sạch vết thương. Nếu dùng cao lỏng hâm nóng thì tạo màng tốt, dai và bám chắc vết thương nhưng vẫn gây xót. Nếu dùng bột bằng lăng tía thì dễ gây nứt nẻ, bột bám không chắc bằng cao.
Đồng bào các dân tộc Gia Rai, Ba Na ở Tây Nguyên đã dùng nước sắc vỏ cây bằng lăng tía để rửa và đắp vết thương, vết bỏng, chữa lỵ, ghẻ lở.
Nhân dân các tỉnh miền Trung đã dùng cao bằng lăng tía kết hợp với cao lá ổi, lá sim để chữa vết thương phần mềm, chữa hắc lào và eczema đạt kết quả tốt.
Theo kinh nghiệm của dân gian, bằng lăng tía được áp dụng chữa bệnh nấm ngoài da (dùng cồn săng lẻ 30%) bôi lên nơi bị tổn thương, ngày 2 lần, kết quả thu được rõ hơn là cồn chút chít và bạch hạc.
Tránh nhầm lẫn Bằng lăng tía với Bằng lăng nước. Bằng lăng tía có tên khoa học là: Lagerstroemia calyculata Kurz. Đồng bào các dân tộc Gia Rai, Ba Na ở Tây Nguyên đã dùng nước sắc vỏ cây bằng lăng tía để rửa đắp vết thương, vết bỏng, chữa lỵ và ghẻ lở. Bằng lăng nước có tên khoa học là Lagerstroemia speciosa Pers, được dùng để trị tiêu chảy, dân gian trị bệnh đái tháo đường.
Bằng lăng tía là loài cây đang phổ biến ở nhiều nơi. Tuy có nguồn gốc từ thiên nhiên nhưng Bằng lăng tía có chỉ định, chống chỉ định và tác dụng phụ. Không nên tự ý sử dụng hoặc nghe theo bài thuốc kinh nghiệm. Hãy đến bác sĩ để hiểu rõ tình trạng cơ thể và tham vấn ý kiến.
Nguồn Tham Khảo:
- //tracuuduoclieu.vn/bang-lang-tia.html
- //tracuuduoclieu.vn/bang-lang-nuoc.html
- Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
- Cây thuốc và động vật làm thuốc Việt Nam.
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.