Tên Tiếng Việt: Bồ hòn.
Tên khác: Vô hoạn, Mộc hoạn tử (Tày), Co-hón (Thái), Mầy quyến ngầm (Dao).
Tên khoa học: Sapindus saponaria L. hay Sapindus mukorossi Gaertn. Đây là một loài thực vật có hoa trong họ Bồ hòn (Sapindaceae).
Cây gỗ lớn, cao trên 5 – 10m, rụng lá vào mùa khô. Lá kép lông chim, mọc so le, có 4 – 6 đôi lá chét mọc gần đối, nhẵn, gốc hình mác, đỉnh nhọn, mép nguyên, có gân nổi rõ ở cả hai mặt.
Cụm hoa mọc thành chùm hay chùy ở cuối cành, gồm nhiều hoa màu lục nhạt kích thước nhỏ, đài hoa 5 răng, ít lông; tràng hoa 5 thùy hình trứng, có vảy ngắn ở gốc, có lông, không nở xòe, nhị 8, cong, dài hơn tràng, bầu nhụy nhẵn hình trứng, có 3 ô.
Quả hình cầu, có gai nổi rõ, vỏ ngoài (thịt quả) dày, teo lại khi chín, màu nâu vàng, hạt tròn, màu đen.
Thời kỳ ra hoa: Tháng 7 – 9.
Thời kỳ đậu quả: Tháng 10 – 12.
Chi Sapindus L. bao gồm một số cây gỗ hoặc cây bụi, phân bố ở các vùng nhiệt đới và cận nhiệt đới, đặc biệt là ở Nam Á: Ấn Độ, Sri Lanka và Malaysia. Ở Ấn Độ có 3 loài: Sapindus mukorossi Gaertn, Sapindus trifoliatus L., và Sapindus laurifolius Valh mà quả được dùng làm xà phòng, thậm chí còn được xuất khẩu sang các nước lân cận như Iran, Ả Rập Saudi, Somalia và Madagascar.
Ở Việt Nam có bốn loài, đều là cây gỗ. Bồ hòn nói riêng là một loại cây quen thuộc vì từ xa xưa quả của nó đã được dùng làm xà phòng. Cây phân bố rải rác ở hầu hết các tỉnh núi thấp (thường dưới 1000m) và miền Trung, bao gồm Bắc Giang, Thái Nguyên, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Xuân Quang, An Bài, Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh,… Cây này còn mọc ở một số nơi như bảo tháp, chùa chiền, cho trái và bóng mát quanh làng.
Bồ hòn là cây ưa sáng và phát triển nhanh. Loại cây này có thể phát triển trên nhiều loại đất khác nhau. Nhưng nó được sử dụng tốt nhất ở nơi lớp đất mặt dày, ẩm và tương đối màu mỡ. Vì vậy, cây thường mọc ở rừng thứ sinh và rừng hành lang ven suối. Bồ hòn hàng năm cho nhiều quả. Thời kỳ chín của quả trùng với thời kỳ rụng lá vào khoảng tháng 10 – 11, khả năng hạt và chồi mới tái sinh cây con sau giâm cành rất tốt. Nó cũng có thể được nhân giống bằng cách giâm cành. Gỗ Bồ hòn cứng được sử dụng để làm đồ nội thất và các công trình kiến trúc.
Bộ phận sử dụng được của Bồ hòn là quả và hạt. Quả hái vào mùa thu, để nguyên hoặc bỏ hạt phơi khô.
Quả Bồ hòn là nguồn nguyên liệu giàu saponin. Trong thịt quả có tới 18% saponosid. Dạng kết tinh đã được chiết ra là saponin mukorosin C52H84O11.2H2O (độ nóng chảy là 155 – 156°). Khi thủy phân cho genin là hederagenin và đường là L-Arabinose, L–Rhamnose, DL–Glucose và D-Xylose.
Các saponosid có trong Bồ hòn như Saponosid A, B, C, D, E, E1, X, Y, Y2… đều là những saponin triterpenoid. Ngoài ra, các mukuroyiosid Ia, Ib, II2, IIb là những saponin có hoạt tính bề mặt mạnh.
Có nhiều phương pháp chiết xuất saponin từ quả Bồ hòn đã được mô tả, đơn giản nhất là đun sôi bột quả với nước, cô đặc dịch chiết và tủa saponin bằng sulfat amoni.
Hạt chứa 9 – 10% dầu béo.
Rễ Bồ hòn có vị đắng, tính mát, hơi có độc, thông kinh lạc, bổ tỳ vị, có tác dụng hóa đàm, trừ ứ trệ. Quả xà phòng có tác dụng sát trùng.
Mọi người thường giặt quần áo của họ bằng Bồ hòn hơn là xà phòng, và tốt nhất là đối với quần áo len và lụa không chịu được tính kiềm của xà phòng. Theo các tài liệu cổ, Bồ hòn có tác dụng giảm ho, long đờm, xông khói có tác dụng chữa hôi miệng và sâu răng. Ở một số vùng, người ta ngâm vỏ cây xà phòng đã giã nát vào nước để tắm cho súc vật bị bọ, chấy, rận.
Trong y học dân gian Ấn Độ, bột vỏ không xà phòng trộn với mật ong để chữa viêm phổi làm thành viên hoàn, mỗi lần uống khoảng 2g. Uống một viên, pha với sữa ấm, ngày 2 lần.
Ở một số vùng của Nepal, vỏ quả Bồ hòn được nghiền thành bột nhão và bôi lên vùng bị ảnh hưởng hàng ngày để điều trị các bệnh về da như ghẻ và các bệnh nấm da. Cũng dùng vỏ quả Bồ hòn, trộn với lượng bột ngô gấp 2 lần, gội đầu thường xuyên để trị gàu và diệt chấy.
Tác dụng kháng khuẩn in vitro đối với một số vi khuẩn gram dương và gram âm
Tác dụng kháng khuẩn in vitro của chất nhầy Bồ hòn đối với một số vi khuẩn gram dương và gram âm đã được nghiên cứu bằng phương pháp khuếch tán giấy lọc. Dịch chiết thô hoặc hoạt chất từ dược liệu được nhũ hóa đến nồng độ 100mg/ml trong nước cất có 0,5% Tween 80 hoặc gôm acacia (không bao gồm dịch chiết của hoạt chất trong nước hoặc tan trong nước). Pha loãng thêm với 3 lần thể tích nước cất.
Dịch chiết từ nước Bồ hòn có tác dụng ức chế sự phát triển của Staphylococcus aureus, Staphylococcus pyogenes và Staphylococcus viridans, đồng thời có tác dụng ức chế yếu đối với Streptococcus pneumoniae và Corynebacterium diphtheriae. Dịch chiết từ quả xà phòng có tác dụng ức chế Staphylococcus aureus và Staphylococcus pyogenes, và có tác dụng ức chế yếu đối với Staphylococcus viridans, Streptococcus pneumoniae và Bacillus diphtheriae.
Tác dụng diệt tinh trùng
Hoạt động diệt tinh trùng của các bộ phận trên mặt đất của Bồ hòn đã được thử nghiệm. Nhỏ một lượng nhỏ chất chứa trong ống dẫn tinh hoặc mào tinh vào hai giọt chiết xuất cây Bồ hòn trên lam kính. Dùng đũa thủy tinh trộn trong vài giây rồi kiểm tra trực tiếp dưới kính hiển vi đối pha. Kết quả là dương tính nếu 100% tinh trùng ngay lập tức bị bất động được kiểm tra ngay khả năng di chuyển của tinh trùng bằng cách thêm dung dịch đệm vào mẫu tinh trùng đã được làm bất động. Chất chiết xuất từ thực vật có khả năng sinh tinh của chuột dương tính đã được thử nghiệm trong tinh dịch người loãng (30 phút sau khi xuất tinh).
Bồ hòn (phần trên mặt đất) thể hiện hoạt động diệt tinh trùng chống lại tinh trùng của chuột và người. Saponin chiết xuất từ một số loại cây đã được chứng minh là có đặc tính diệt tinh trùng, trong đó hỗn hợp saponin toàn phần mạnh nhất trong vỏ quả Bồ hòn. Hoạt động diệt tinh trùng của loại cây này có liên quan đến acid oleanolic – một sapogenin thuộc loại acid C-28-cacboxylic. Một loại kem được bào chế với tổng saponin không chứa saponin đã được thử nghiệm dược lý và lâm sàng để sử dụng tại chỗ ở âm đạo như một biện pháp tránh thai.
Trong điều trị bỏng
Không nên dùng dạng thuốc mỡ Bồ hòn để trị bỏng vì đã áp dụng trên 10 bệnh nhân thấy vết thương bỏng có nhiều mủ.
206 trường hợp bỏng đã được điều trị bằng cao lỏng Bồ hòn. Thấm cao lỏng vào bông gòn có quấn gạc, rửa sạch và đắp lên vết bỏng. Các nguyên nhân gây bỏng bao gồm bỏng nước sôi, bỏng nước vôi, bỏng lửa và bỏng sét đánh. Diện tích bỏng khoảng 5 – 30%, phần lớn là bỏng độ 2, một số ít bỏng độ 1, độ 3. Thời gian điều trị trung bình là 9 – 12 ngày. Kết quả cho thấy vết bỏng ít ra mủ, không hôi thối, mau lành da non, giảm lượng kháng sinh toàn thân, rút ngắn số ngày điều trị. Nhược điểm của dung dịch xà phòng là sau khi bôi, người bệnh sẽ cảm thấy đau và nóng bên trong, nhất là lần đầu. Băng vết bỏng khó tháo ra và phải ngâm nhiều nước muối đẳng trương. Không nên dùng thuốc mỡ saponin trị bỏng vì đã bôi 10 bệnh nhân thấy vết thương bỏng có nhiều mủ.
Liều dùng từ 1 đến 3 quả hoặc 15 – 30g rễ sắc uống, nghiền thành bột rồi ngâm rượu.
Trị hôi miệng, sâu răng
Nhân quả Bồ hòn (5 – 10 g) nghiền thành bột, ngậm rồi nhổ nước đi.
Diệt sâu, trừ giòi bọ
Vỏ cây tươi Bồ hòn nghiền nát, cho vào nước, đem phun.
Vỏ quả Bồ hòn, sắc lấy nước đặc rồi đem tưới.
Trị hắc lào
Vỏ quả Bồ hòn (20g), củ Riềng già (10g). Nghiền nhỏ rồi ngâm với 20ml cồn 90°, dùng bôi ngoài da.
Trị ghẻ lở, hắc lào
Quả Bồ hòn bỏ hạt nấu thành dầu rồi nghiền hạt củ đậu với diêm sinh lượng bằng nhau, trộn đều vào để bôi sau khi đã xát rửa sạch vùng bị bệnh với nước nóng.
Trị đau họng, không nuốt được
Vỏ quả Bồ hòn đồ, phơi khô rồi tán nhỏ, sử dụng bằng cách thổi vào họng.
Phòng ngừa đỉa cắn
Dầu quả Bồ hòn, bôi vào đùi và chân trước khi lội xuống ao, ruộng.
Không có.
Nguồn Tham Khảo:
Tra cứu dược liệu Bồ hòn: //tracuuduoclieu.vn/bo-hon.html.
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.