Tên tiếng Việt: Cà dại hoa trắng
Tên khác: Cà gai hoa trắng, cà pháo, cà dại, cà hoa trắng, bạch gia, pháo gia, cà trắng, cà nước, cà hoang
Tên khoa học:Solanum torvum Sw, họ Cà (Solanaceae)
Cà dại hoa trắng cây nhỏ, cao 2 – 3 m, thân ít gai, trên phủ nhiều lông hình sao mang nhiều cành mềm, có lông. Lá mọc so le, hình trứng, không đều và lệch về phía dưới, phiến lá dài 8 – 20 cm, rộng 6 – 18 cm, chia thùy nông, cuống lá dài 1,5 – 10 cm. Hoa trắng, mặt ngoài có lông, mọc thành chùm nhiều nhánh ở kẽ lá. Quả hình cầu, đường kính 12 – 15 mm, nhẵn khi chín có màu vàng. Hạt hình đĩa, có những đường nhăn nhỏ, đường kính 1,5 – 2 mm. Mùa hoa quả: Tháng 4 – 7.
Mọc hoang dại ở khắp nơi, tại những bãi trống, ven đường.
Người ta dùng rễ thu hái quanh năm. Đào về rửa sạch, thái mỏng phơi hay sấy khô. Người ta còn dùng quả hái khi chưa chín hẳn.
Bộ phận sử dụng được của Cà dại hoa trắng là rễ, quả, lá, hoa.
Quả cà dại hoa trắng phơi khô chứa protein 8,3g, chất béo 1,7g, chất vô cơ 5,1g, carbohydrat 55g. Các thành phần vô cơ gồm Ca 390mg, P 180mg, Fe 22,2 mg. Quả còn chứa sitosterol – D – glucosid, solasonin, carpesterol.
Rễ chứa Jurubin.
Lá chứa saponin sterohe trong đó có các sapogenin là neoclorogenin, panicucogenin, neosolaspigenin, solaspigenin. Theo một số tài liệu, lá chứa các saponin torvonin A, torvonin B. Ngoài ra, còn có octancosanyl triacontanoat, 5 – hexatriacontanon, triacontanon, 3 – triacontanon, acid tetratriacontanoic.
Ở Ấn độ, quả được coi là có tác dụng điều trị gan và lách to, nước sắc quả được dùng uống trị ho. Cây còn có tác dụng an thần, lợi tiểu và lợi tiêu hóa. Rễ được dùng dưới dạng thuốc đắp nóng để chữa nứt nẻ ở bàn chân.
Ở Nepal, người ta dùng quả giã nát làm thuốc nhão đắp lên trán để chữa nhức đầu nặng.
Ở Indonesia, người dân thường giã nát quả lấy nước uống chữa sốt rét và những bệnh sốt khác vì có vị đắng. Quả cây cũng có trong thành phần của một thuốc uống gồm nhiều vị để trị tiêu chảy và đau bụng.
Ở Philippines, người địa phương dùng nước sắc rễ uống để giải độc khi bị ngộ độc và cũng dùng cho phụ nữ sau khi sinh để làm giảm bớt sự chảy máu. Ở miền trung Haiti, người dân dùng lá dược liệu dưới dạng nước sắc uống chữa đau dạ dày.
Trong y học dân gian Camorun, lá cà dại hoa trắng là thuốc cầm máu.
Cao chiết từ cây cà dại hoa trắng có tác dụng trên nhịp và biên độ hô hấp và trên huyết áp. Cả cây, trừ rễ có tác dụng ức chế co thắt hồi tràng cô lập chuột lang gây bởi acetylcholin clorid và histamin. Chất carpesterol có trong cây có hoạt tính chống viêm trên phù chân chuột nhắt trắng gây bằng caragenin, tương đương với hoạt tính của hydrocortisol.
Rễ cây được dùng chữa đau bụng, uống mỗi ngày 10 – 20g, dưới dạng nước sắc.
Rễ sắc đặc dùng ngâm chữa đau răng. Quả dùng ngoài chữa ong đốt, nứt nẻ chân tay, nước ăn chân.
Chữa đau răng
Rễ dược liệu, rễ chanh, vỏ cây lai, vỏ cây trầu. Sắc đặc, ngậm nhổ nước.
Chữa ong đốt, nứt nẻ bàn chân, kẽ chân
Quả dược liệu và lá lốt, giã nát, lấy dịch ép bôi.
Chữa lang ben phát triển ở nách, đùi
Quả dược liệu tươi cắt đôi, chấm mặt cắt với bột diêm sinh và xát vào nơi bị lang ben.
Khi sử dụng cà dại hoa trắng cần lưu ý:
Cà dại hoa trắng được dùng nhiều trong y học dân gian không chỉ ở nước ta mà còn ở các nước khác. Tuy nhiên liều lượng sử dụng còn phụ thuộc vào cơ thể mỗi người. Quý độc giả cần tham khảo ý kiến bác sĩ chuyên môn trước khi dùng để đạt được hiệu quả tốt nhất.
Nguồn Tham Khảo:
Tra cứu dược liệu: //tracuuduoclieu.vn/ca-dai-hoa-trang.html
Cây thuốc và động vật làm thuốc Việt Nam.
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.