Bạn đang theo dõi bài viết chủ đề về Cá ngựa: Loại xác cá khô có nhiều tác dụng chữa bệnh cung cấp tại Công Đông Y mong rằng sẽ giúp ích nhiều cho bạn trong cuộc sống và chăm sóc sức khỏe.
Giới Thiệu Chung:
Cá ngựa sống ở biển, các vịnh, gần bờ ở độ sâu vài mét đến vài chục mét. Ở Việt Nam, cá ngựa thường sống ở dọc các bờ biển, tuy nhiên chỉ có một vài nơi biết sử dụng cá ngựa làm thuốc (Hòn Gai). Cá ngựa được dùng cho các bệnh: Liệt dương, dùng cho đàn bà chậm có con do suy dương khí, thở khò khè, viêm thận mạn.
Thông Tin Dược Liệu
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng Việt: Cá ngựa, Hải mã; Hải long; Thủy mã.
Tên nước ngoài: Horse – fish, Sea- horse (Anh); Hippocampe, Cheval – marin (Pháp).
Tên khoa học: Hippocampus spp. Họ: Cá chìa vôi (Syngnathidae).
Đặc điểm tự nhiên
Ở Việt Nam có rất nhiều loài Cá ngựa với nhiều kích thước và màu sắc khác nhau.
-
Các loài đều có những đặc điểm chung: Thân dẹt về bên, khá dày, cấu tạo bởi các đốt xương hình nhẫn, dài từ 15 – 20cm, có tới tới 30cm. Đầu giống đầu ngựa nằm ngang, vuông góc với thân hoặc cong xuống, trên đỉnh có gai. Mõm dài hình trụ, miệng nhỏ, mắt to, lưng võng có vây lớn, bụng phình to không có vây, vây ngực nhỏ, vây hậu môn rất bé. Cá ngựa đực có một cái túi ở bụng để hứng trứng do cá cái đẻ vào khiến nhiều người nhầm lẫn chúng là cá cái. Đuôi dài, xoắn tròn về phía trước, không có vây. Cá ngựa khá đa dạng về màu sắc, thường gặp cá ngựa màu vàng, trắng, vàng – nâu, đôi khi có pha đỏ và xanh đen nhạt. Khi bơi lượn trong nước màu sắc của chúng thay đổi rất đẹp.
-
Dù to, nhỏ hay màu sắc nào cũng dùng để làm thuốc được, nhưng người ta cho rằng Cá ngựa màu trắng hay màu vàng dùng làm thuốc là tốt hơn cả.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cá ngựa sống ở các vùng biển, vịnh, ven bờ ở độ sâu từ vài mét đến hàng chục mét và được tìm thấy ở nhiều nơi trên thế giới. Ở Việt Nam, Cá ngựa thường gặp ở Hải Phòng, Quảng Ninh, Thanh Hóa, Nghệ An và ven biển các tỉnh phía Nam từ Quảng Nam, Đà Nẵng đến Kiên Giang, nhiều nhất ở Vịnh Hạ Long, Bình Thuận, Khánh Hòa. Cá ngựa bơi thẳng đứng và bám vào thực vật hoặc san hô bằng đuôi, ăn động vật nhỏ di động và thực vật thủy sinh. Cá ngựa di chuyển chậm và để tránh kẻ thù thì chúng thường ẩn mình trong thảm cỏ biển, rạn đá, rạn san hô. Mùa Cá ngựa sinh đẻ vào khoảng tháng 3 đến tháng 7.
Các loài được tìm thấy là Cá ngựa vàng (Cá ngựa lớn, đại hải mã – Hippocampus kuda Bleeker.), Cá ngựa trắng (Hippocampus kelloggi Jordan et Snyder), Cá ngựa đốm (cá ngựa ba khoang hay ba chấm, tam ban hải mã – Hippocampus trimaculatus Leach), Cá ngựa gai (Hippocampus brevirostris), Cá ngựa Nhật Bản (Hippocampus japonicus Kaup.), Cá ngựa mõm ngắn (Hippocampus brevirostris), Cá ngựa Úc (Hippocampus phylloperexeques). Mùa đánh bắt cá thường là tháng 8 đến tháng 9. Ngư dân không tổ chức đánh bắt Cá ngựa riêng biệt mà chúng thường được kết hợp khi đánh bắt các loài hải sản khác.
Hai loài được khai thác nhiều nhất là Cá ngựa gai và Cá ngựa ba khoang, hàng năm thu hoạch được khoảng 24 tấn cá ngựa khô trên cả nước. Các nhà nghiên cứu ước tính rằng khoảng 20 triệu con cá ngựa được tiêu thụ cho mục đích y học và được nuôi làm thú cưng trên toàn thế giới mỗi năm. Một số quốc gia như Australia, Ấn Độ, Argentina và Philippines có chương trình nuôi Cá ngựa. Từ năm 1992 đến năm 1994, hai tỉnh Khánh Hòa và Bình Thuận đã phối hợp phát triển nghiên cứu nuôi Cá ngựa.
Tại Viện Hải Dương học Nha Trang đã thành công trong việc thuần hóa, nuôi Cá ngựa ăn thức ăn chết thay thế cho thức ăn sống và đã thả vài chục nghìn Cá ngựa con ra biển để khôi phục và bảo vệ loại động vật tự nhiên này hiện đang bị suy giảm.
Chế biến: Cá sau khi bắt về đem rửa sạch, mổ bụng, bỏ ruột, uốn đuôi cho cong rồi phơi hay sấy khô. Có người còn dùng bàn chải để chải sạch lớp da sẫm màu bên ngoài và rửa sạch trước khi mổ cá hoặc ngâm cá trong rượu hồi hoặc rượu quế trong một thời gian, sau đó phơi khô hoặc sấy khô. Dược liệu cá ngựa dài, dẹt và cong, phần giữa to, mặt ngoài màu trắng ngà hoặc màu vàng nâu. Toàn thân có các đốt vân nổi và nhô lên ở dọc lưng, bụng và hai bên sườn như gai. Đầu nghiêng xuống hoặc hơi duỗi, phần trên đầu có khối u lồi, hai mắt lõm sâu. Đuôi thuôn và cuộn dần vào trong. Nguyên liệu to, màu sắc đồng đều, còn nguyên đầu và đuôi là loại đạt chất lượng tốt.
Bộ phận sử dụng
Cả con Cá ngựa.
Thành phần hoá học
Các enzym sinh tổng hợp prostaglandin; Docosahexaenoic acid (DHA); Peptid; Protein; Các gene chống khối u.
Công dụng
Theo y học cổ truyền
Cá ngựa có tính ôn, vị ngọt, mặn, mùi tanh (nếu không sao tẩm), tính ấm, không độc, có tác dụng làm ấm thận, tráng dương, gây hưng phấn, kích thích sinh dục, giảm đau, trị huyết khí thông, phụ nữ khó đẻ.
Theo y học hiện đại
Các enzym sinh tổng hợp prostaglandin: Chất này tham gia vào quá trình điều hòa thần kinh, ổn định hóc môn và cải thiện hệ miễn dịch. Đồng thời, prostaglandin cũng kích thích sản xuất oxytocin – một loại hóc môn giúp chi phối các hoạt động tình dục của não bộ.
Docosahexaenoic acid (DHA): Đây là chất cơ bản để các quý ông có khả năng sản xuất ra tinh trùng.
Peptid: Được biết với tác dụng kháng khuẩn, bảo vệ cơ thể trước sự xâm nhập của các tế bào ngoại lai.
Protein: Cá ngựa có hàm lượng protein cao, có tác dụng chống oxy hóa, kéo dài tuổi trẻ.
Các gene chống khối u: Người ta tin rằng một số gen đặc biệt được tìm thấy trong Cá ngựa có khả năng chống lại sự hình thành và phát triển của các khối u.
Liều dùng & cách dùng
Tại Trung Quốc, Cá ngựa được dùng làm thuốc và lần đầu tiên được ghi lại vào bộ sách Bản thảo Cương mục thập di của Triệu Học Mẫn (1765).
Dược liệu Cá ngựa giúp chữa thần kinh suy nhược, cơ thể yếu mệt, đau lưng nhất là ở người cao tuổi, phụ nữ đau bụng, đẻ khó, nam giới bất lực, đinh nhọt, sang lở. Trong một số trường hợp, Cá ngựa cũng có thể dùng chữa bệnh hen suyễn. Ngày dùng 4 – 12 g chia 3 lần uống dưới dạng thuốc dạng bột hoặc dạng viên uống với nước hoặc rượu. Dùng riêng hoặc phối hợp với các vị thuốc khác như dâm dương hoắc, câu kỷ tử… Theo quan niệm của ngư dân vùng biển, Cá ngựa tươi ngâm rượu mới quý; đó là lý do tại sao họ thường mang theo hàng lít rượu trắng để ngâm Cá ngựa tươi bắt được trong bất kỳ chuyến ra biển nào. Họ cũng cho biết họ thích sử dụng một cặp Cá ngựa, cụ thể là một cặp cá đang quấn lấy nhau và mắt chúng vẫn còn nguyên mới tốt.
Nếu dùng ngoài, Cá ngựa được tán thành bột mịn, rắc lên vết lở loét. Ở Trung Quốc, người ta còn dùng Cá ngựa tươi nấu cùng thịt gà ăn làm thuốc bổ khí huyết, ôn thận dương.
Bài thuốc kinh nghiệm
Chữa liệt dương, đàn bà chậm có con do suy dương khí
Tất cả băm nhỏ, ngâm với 1 lít rượu trong 5 – 7 ngày hoặc càng lâu càng tốt. Uống 20 – 40ml mỗi ngày. Người không uống được rượu nên pha thêm nước và mật ong để dễ uống hơn.
Chữa thở khò khè
Cá ngựa (5g), Đương quy (10g), sắc cùng 200ml nước đến khi còn khoảng 50ml, ngày uống 1 lần (Tài liệu nước ngoài).
Chữa viêm thận mạn tính
Cá ngựa (1 con) rang vàng giòn, tán thành bột; bầu dục lợn (1 quả) cắt đôi, rửa sạch, thêm bột cá ngựa, cột chặt, hấp cách thủy, ăn liên tục trong 15 ngày, mỗi ngày 1 lần (tài liệu nước ngoài).
Lưu ý
Vì hình dáng kỳ lạ, lý thú, đổi màu trong nước nên Cá ngựa đã được nuôi làm cá cảnh từ nhiều năm nay.
Với nhu cầu xuất khẩu để làm thuốc nên Cá ngựa hiện nay đang bị khai thác khá nhiều. Hiện nay Cá ngựa đã được đưa vào Sách Đỏ Quốc gia để bảo vệ.
Nguồn Tham Khảo:
1. https://tracuuduoclieu.vn/ca-ngua.html
2. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
3. Cây thuốc và động vật làm thuốc Việt Nam (tập 1).
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.