Bạn đang theo dõi bài viết chủ đề về Cau hạt: Vị thuốc quý gần gũi quanh ta cung cấp tại Công Đông Y mong rằng sẽ giúp ích nhiều cho bạn trong cuộc sống và chăm sóc sức khỏe.
Giới Thiệu Chung:
Cau hạt hay còn gọi là Binh lang là hạt đã phơi hay sấy khô lấy từ quả chín của cây Cau (Areca catechu L.), họ Cau (Arecaceae). Đây là dược liệu thường được sử dụng để điều trị bệnh trong Đông y. Đặc biệt, vị thuốc có khả năng chữa các chứng bệnh về đường tiêu hóa như ăn không tiêu, bụng đầy trướng, nhiễm giun, sán rất hiệu quả.
Thông Tin Dược Liệu
Tên gọi, danh pháp
Tên tiếng việt: Cau hạt.
Tên khác: Binh lang, Tân lang, Đại phúc tử …
Tên khoa học:Semen Arecae catechi. Tên cây Areca catechu L., họ Cau – Arecaceae.
Đặc điểm tự nhiên
Cây cau là một cây có thân mọc thẳng đứng cao chừng 15 – 20 m, đường kính 10 – 15 cm. Toàn thân không có lá mà có nhiều vết lá cũ mọc, chỉ ở ngọn có một chùm lá to rộng xẻ lông chim. Lá có bẹ to. Mo ở bông mo sớm rụng. Trong cụm hoa hoa đực ở trên, hoa cái ở dưới. Hoa đực nhỏ màu trắng, 6 nhị. Hoa cái to, bao hoa không phân hóa. Noãn sào thượng 3 ô. Quả hạch hình trứng to bằng quả trứng gà. Quả bì có sợi, hạt có nội nhũ xếp cuốn. Hạt hơi hình nón cụt, đầu tròn giữa đáy hơi lõm, màu nâu nhạt, vị chát.
Cau hạt là hạt phơi khô của cây cau. Cau hạt có dạng khối cứng, hình trắng hoặc hình cầu dẹt, cao khoảng 1,5 cm đến 3,5 cm; đường kính khoảng 1,5 cm đến 3,5 cm. Đáy phẳng, ở giữa lõm, đôi khi có một cụm xơ (cuống noãn). Mặt ngoài màu nâu vàng nhạt hoặc màu nâu đỏ nhạt với những nếp nhăn hình mạng lưới, cắt ngang thấy vỏ hạt ăn sâu vào nội nhũ tạo thành những nếp màu nâu xen kẽ với màu trắng nhạt. Phôi nhỏ nằm ở đáy hạt. Vị chát và hơi đắng.
Phân bố, thu hái, chế biến
Cây cau được trồng ở khắp nơi trong nước ta để lấy quả ăn trầu và xuất cảng. Cây cau trồng bằng quả thường sau 5 – 6 năm mới thu hoạch.
Người ta phân biệt cau rừng (sơn binh lang) và cau nhà (gia binh lang). Cau rừng hạt nhỏ, nhọn và chắc hơn. Loại sơn binh lang có nhiều ở Nghệ Tĩnh và Thanh hóa.
Trước đây (vào năm 1930) diện tích trồng cau ước lượng chừng 2500 hecta ở miền Bắc Việt Nam chủ yếu là Hải Hưng sau đến Kiến An, Quảng Ninh và cuối cùng đến Nam Hà, Thái Bình. Tại miền Trung, diện tích trồng trước đây ước chừng 1.400 hecta. Tại miền Nam Việt Nam, nhân dân cũng trồng nhiều ở Mỹ Tho, Bến Tre, Rạch Giá, Cần thơ.
Mùa thu hoạch quả cau khoảng tháng 9 – 12. Thu hái quả chín, bổ lấy hạt. Hạt được cắt lát (binh lang phiến) hay bổ đôi, phơi hoặc sấy khô.
Binh lang sao đen (Tiêu binh lang): Lấy binh lang phiến, sao nhỏ lửa đến khi có màu vàng đen. Bảo quản: Để nơi khô mát, tránh mốc mọt.
Bộ phận sử dụng
Bộ phận sử dụng là hạt của quả cau.
Thành phần hoá học
Thành phần chính là tanin. Tỉ lệ tanin trong hạt non chừng 70% nhưng khi chín chỉ còn 15 – 20%. Hoạt chất chính là 4 alkaloid: Arecolin C3H13NO2, guvacolin C7H11NO2, arecaidin C7H11NO2, guvaxin C6H9NO2.
Ngoài ra còn chất mỡ (14%) với thành phần chủ yếu gồm myristin 1/5, olein 1/4, laurin 1/2, các chất đường: Sacarose, nanman, galactan 2% và muối vô cơ.
Công dụng
Theo y học cổ truyền
Theo Đông y, Cau hạt có tính tân, khô, ôn, quy vào kinh Vị, Đại tràng. Tác dụng:
-
Sát trùng, tiêu tích, hành khí, thông tiện, lợi thủy. Chủ trị: Trừ sán dây, giun đũa, sán xơ mít, trùng tích, phúc thống, tích trệ, tả lỵ, thùy thũng, cước khí, sốt rét.
-
Cau hạt sao đen: Tiêu thực, đạo trệ. Chủ trị: Ăn vào không tiêu sau tả lỵ nặng.
Theo y học hiện đại
Tác dụng dược lý
Xổ sán (taeniasis)
Tác dụng đối với sán lợn tốt hơn sán bò, làm tê liệt thần kinh của sán kết hợp với bí đỏ (hạt) có tác dụng hợp đồng tốt, nâng cao hiệu quả xổ sán. Thuốc đối với lãi kim cũng có tác dụng nhất định. 20 phút sau khi dung dịch hạt Cau tới ruột làm con sán bị tê liệt và không bám vào thành ruột được.
Tác dụng đối với hệ thần kinh
Arecolin có tác dụng như thần kinh phó giao cảm, kích thích các thụ thể cholinergic, làm tăng trương lực cơ trơn của trường vị, tăng nhu động ruột và gây tiêu chảy (cho nên xổ sán lãi không cần thuốc tẩy). Ngoài ra, nó còn làm chậm nhịp tim, hạ huyết áp, tăng tiết nước bọt và mồ hôi. Dung dịch thuốc nhỏ mắt từ dược liệu làm đồng tử nhỏ lại, tăng co thắt túi mật và cơ trơn tử cung.
Kháng khuẩn
Hạt Cau tươi và khô đều có tác dụng ức chế nấm và virus gây bệnh ngoài da.
Liều dùng & cách dùng
Tùy thuộc vào mục đích sử dụng và từng bài thuốc mà có thể dùng dược liệu với nhiều cách khác nhau. Dược liệu Cau hạt được sử dụng chủ yếu ở dạng thuốc sắc, thuốc bột hoặc dạng hoàn tán với liều dùng 6 – 15 g.
Trong trường hợp dùng độc vị để trị nhiễm sán lá, có thể dùng đến 60 – 100 g/ngày. Ngoài ra, Cau hạt còn được dùng để nấu nước ngâm rửa ngoài da.
Bài thuốc kinh nghiệm
Trị sán
Bài số 1: Vỏ rễ lựu 40 g, Hạt cau 4 g, Đại hoàng 4 g đem sắc với 600 ml (khoảng 3 bát) sắc lấy 1 bát, uống sáng sớm, chia làm nhiều lần trong vòng 30 phút, khi đi ngoài ngồi vào chậu nước ấm.
Bài số 2: Hạt cau 15 g, sơn trà tươi 500 g (Nếu là trẻ em giảm một nửa. Nếu dùng dược liệu sơn trà khô, người lớn 250 g, trẻ em 120 g). Sơn trà rửa sạch, bỏ hạt. Từ 3 giờ chiều bắt đầu ăn dần dần, đến 10 giờ tối ăn hết, không ăn cơm tối. Sáng hôm sau lấy 30 g hạt cau, thêm nước, đun sôi lấy 1 chén nhỏ, uống 1 lần cho hết. Nằm nghỉ trên giường. Khi muốn đại tiện, gắng gượng nhịn một lúc lâu rồi hãy đi đại tiện.
Bài số 3: Dùng nước sắc hạt cau phối hợp với hạt bí ngô: Do nghiên cứu thấy nước sắc hạt cau có tác dụng làm tê liệt sán bò và sán lợn, nhưng chỉ mạnh với đầu con sán và những đốt chưa thành thục, trái lại hạt bí ngô có tác dụng chủ yếu là tê liệt các khúc giữa và khúc đuôi con sán, cho nên có thể dùng cách sau:
-
Sáng sớm lúc đói bụng ăn 80 – 120 g hạt bí ngô (để cả vỏ) hoặc 40 – 100 g (hạt đã bóc vỏ). Hai giờ sau uống nước sắc hạt cau (trẻ em dưới 10 tuổi uống 30 g. Phụ nữ và đàn ông bé nhỏ uống 50 – 60 g, người lớn 80 g). Cách chế nước sắc hạt cau như sau: Cho hạt cau theo liều nói trên vào đun với 500 ml nước, sắc cạn còn 150 – 200 ml. Nhỏ dung dịch gelatin 2,5% vào cho đến khi hết kết tủa (để loại hết tannin), để lắng, gạn và lọc. Đun còn 150 – 200 ml. Nửa giờ sau khi uống nước sắc hạt cau, sẽ uống một liều thuốc tẩy (30 g magnest sulfat). Nằm nghỉ, đợi đến khi thật buồn đi ngoài thì đi vào chậu nước ấm nhúng cả mông vào.
-
Theo tài liệu nước ngoài, hạt bí đỏ Cucurbita moschata được dùng trị giun sán và tiêu chảy. Liều dùng là 30 – 60 g hạt đã bóc vỏ và nghiền nhỏ, trộn với nước và làm thơm bằng tinh dầu quế hay tinh dầu lộc đề.
Tẩy giun đũa, giun kim, sán
Cau hạt 15 g, thạch lựu bì, nam qua tử đều 10 g sắc uống lúc đói trước khi đi ngủ.
Chữa đau bụng, đầy bụng, tẩy giun đũa
Cau hạt 5 g, hắc sửu 4 g, lôi hoàn 4 g, mộc hương 4 g, nhân trần 5 g, tạo giác 3 g. Chế thành thuốc viên, uống.
Trị táo bón, bụng đầy do thực tích khí trệ
Bài số 1: Mộc hương Cau hạt hoàn: mộc hương 40 g, cau hạt 40 g, thanh trần bì 40 g, nga truật 40 g, hoàng liên đều 40 g, hoàng bá 120 g, đại hoàng 120 g, hương phụ (sao) 160 g, khiên ngưu 160g. (Bài thuốc của Chu Đan Khê có thêm Chỉ Xác).
Tất cả tán bột mịn làm hoàn nhỏ, mỗi lần 6 – 10 g, ngày 2 – 3 lần với nước sôi ấm hoặc nước gừng lúc đói. Có thể làm thuốc thang sắc uống, tùy theo bệnh lý gia giảm.
Bài số 2: Hạt cau 10 g, sơn tra 10 g sắc uống.
Chữa khí trệ, đau bụng, đại tiện khó
Cau hạt, chỉ thực, ô dược, mộc hương: mỗi thứ 6 g. Sắc lấy nước đặc uống.
Chữa trẻ con chốc đầu
Mài Cau hạt thành bột rồi phơi khô, sau đó trộn với dầu và thoa lên vùng da cần điều trị. Cần theo dõi vì có độc.
Trị sốt rét
Bài 1: “Thường sơn triệt ngược”
Thường sơn 6 g, binh lang (cau hạt) 2 g, thảo quả 1 g, cát căn 4 g, nước 600 ml. Sắc còn 200 ml, chia 3 lần uống trong ngày. Theo kinh nghiệm hễ sốt rét nhiều, rét ít thì người ta tăng liều cát căn lên tới 10 g, ngược lại nếu rét nhiều sốt ít thì người ta tăng liều thảo quả lên tới 3 – 4 g.
Đơn thuốc này ít gây nôn.
Bài 2: Bột thường sơn cau hạt
Cau hạt 15 g, thường sơn 20 g, thảo quả 20 g, hoạt thạch 20 g, bạch phàn 10 g, cam thảo 8 g. Thường sơn tước bỏ gân lá tẩm giấm sao. Bạch phàn phi khô, cau hạt, cam thảo sấy khô. Tất cả tán bột mịn, Mỗi lần uống 4 g, ngày uống 2 lần, chấm với chuối tiêu ăn, uống trước khi ăn cơm 2 giờ. Trị sốt rét cơn.
Bài 3: Hà sơn hoàn – trị sốt rét lâu ngày không khỏi
Hà thủ ô đỏ 300 g, lá thường sơn (bỏ gân) 160 g, đảng sâm 160 g, cau hạt 120 g, thảo quả 120 g, can khương 60 g. Đảng sâm, cau hạt, can khương thái mỏng, sâý khô. Thường sơn tẩm rượu sao vàng. Thảo quả sao cháy vỏ. Hà thủ ô sấy khô. Tất cả tán bột mịn trộn đều, luyện hồ làm viêm bằng hạt đậu xanh, sấy khô. Trẻ em 5 – 10 tuổi ngày uống 1 lần 10 – 15 viên, trên 10 tuổi ngày 1 lần 15 – 20 viên. Người lớn ngày uống 1 lần 30 – 40 viên. Uống với nước chín nóng trước khi lên cơn 2 giờ. Kiêng kỵ: Các chất tanh, mỡ. Phụ nữ có thai không được dùng.
Trị có thai nôn mửa không ăn được, hoặc thổ ra đờm dãi
Hạt cau khô 0,6 g, rễ lau tươi 2,1 g, vỏ quýt 2,1 g, gừng sống 0,9 g. Tất cả cắt nhỏ, sắc với nước uống vào lúc đói.
Điều trị sau khi sinh đại tiện, tiểu tiện đều không thông
Hoa đào, hoạt thạch, hột vông vang, hạt cau già. Tất cả lượng đều bằng nhau, cùng tán nhỏ, mỗi lần dùng 6,2 g, sắc nước hành trắng, uống lúc đói.
Điều trị sau khi sinh tiểu tiện không thông
Mộc thông, hột mè, hoạt thạch, hột vông vang, hạt cau già, chỉ thực. Tất cả lượng bằng nhau, cam thaỏ 0,15 g, cùng làm 1 thang, nước 1 bát, sắc lấy 7 phần, uống nóng.
Lưu ý
Một số lưu ý khi sử dụng Cau hạt:
-
Cơ thể hư nhược không nên dùng.
-
Không dùng Cau hạt cho trẻ nhỏ, sản phụ.
-
Các trường hợp khí hư hạ hãm (sa dạ dày, thoát vị cơ quan tiêu hóa).
Cau hạt là một vị thuốc cổ truyền được sử dụng từ rất lâu trong dân gian. Nhờ có nhiều tác dụng quý mà dược liệu này được dùng nhiều trong các bài thuốc chữa bệnh cũng như cuộc sống hằng ngày. Tuy nhiên, để có thể phát huy hết công dụng và kiểm soát rủi ro, các tác dụng không mong muốn của dược liệu với sức khỏe, bạn nên tham khảo ý kiến bác sĩ, dược sĩ.
Nguồn Tham Khảo:
- Đỗ Tất Lợi (2004). Những Cây thuốc và Vị thuốc Việt Nam (Tái bản lần XII), Nhà Xuất bản Y học, Hà Nội.
- Bộ Y Tế (2017). Dược điển Việt Nam V (Tái bản lần thứ V), Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
- Ds Phạm Thiệp và cộng sự (2000). Cây thuốc Bài thuốc và Biệt dược, Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
- Y học căn bản: Mộc hương Binh lang hoàn, < https://www.yhoccanban.com/2013/03/moc-huong-binh-lang-hoan.html> xem 19/10/2021.
- Nguyễn Đức Toàn (2004). Nam Y Nghiệm Phương, Nhà Xuất bản Y học, Hà Nội,
- Nguyễn Bá Tĩnh (2007). Tuệ Tĩnh toàn tập (Tái bản lần V), Nhà Xuất bản Y học, Hà Nội.
- https://mplant.ump.edu.vn/index.php/cau-areca-catechu-arecaceae/xem 19/10/2021.
- https://mplant.ump.edu.vn/index.php/cau-areca-catechu-arecaceae/xem 19/10/2021.
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.