Tên Tiếng Việt: Củ Chóc.
Tên khác:
Bán hạ nam; chóc chuột.
Tên khoa học:Rhizoma Typhonii trilobati, họ Ráy (Araceae).
Củ Chóc là cây thân thảo hằng năm, cao khoảng 20 đến 30cm. Thân củ có nhiều khía ngang, hình cầu. Lá mọc từ củ, phần gốc loe ra thành bẹ, có cuống dài pha màu tím đỏ nhạt; phiến lá chia 3 thùy, thùy giữa to hình thoi, thùy ở 2 bên hẹp, xòe ngang, đầu nhọn, mép uốn lượn, gân mặt dưới lá đôi khi có màu đỏ tím, gốc hình tim.
Cụm hoa là một bông mo, phần ống bầu dục thuôn hoặc hình trứng, có màu lục pha đỏ tím, phân thùy thành bản rộng thuôn nhọn dần ở đầu, mặt ngoài màu lục nhạt, mặt trong màu đỏ hồng, trục hoa màu hồng, phần mang hoa cái hình trụ ngắn, phần mang hoa không sinh sản dài hơn, tiếp đến là phần không mang hoa dài gấp đôi phần mang hoa không sinh sản, phần mang hoa đực có nhiều hoa, phần cuối trục hình dùi, thẳng, gốc hơi loe rộng, hoa có mùi khó ngửi, nhất là về buổi chiều.
Mùa hoa: Tháng 5 – 7.
Củ Chóc mọc ở khắp các vùng miền, từ đồng bằng đến vùng trung du, miền núi (độ cao dưới 1000m), và cả ở một vài đảo lớn ở nước ta. Cây còn phân bố ở Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ và Lào.
Củ Chóc có thân ngầm dạng củ, thường mọc ở đất ẩm trong vườn, ruộng trồng hoa màu và nương rẫy, bãi sông suối. Hàng năm, cây thường mọc khoảng tháng 2 đến tháng 3. Vào khoảng tháng 6 đến tháng 7, sau khi ra hoa quả, phần cây trên mặt đất sẽ tàn lụi. Cây mọc từ hạt, khoảng một năm thì củ còn nhỏ nhưng những củ có đường kính 4cm thường có hiện tượng thối gốc.
Vào tháng 8 hoặc tháng 9, có thể thu hoạch rễ củ khi cây tàn lụi. Đào lấy rễ củ, đem cắt bỏ rễ con rồi rửa cho sạch. Đổ thành đống, ủ khoảng 7 đến 10 ngày đến khi vỏ ngoài mềm nát, chà xát cho tróc hết lớp vỏ ngoài. Đồ bằng hơi nước đến khi không còn nhân trắng đục là củ đã chín đều. Thái phiến dày 0,2 m đến 0,3cm. Phơi khô hoặc sấy đến khô kiệt.
Để giảm bớt độ độc (gây ngứa) của củ Chóc có nhiều phương pháp chế biến khác nhau như tẩm cam thảo, phèn chua, nước vo gạo, nước vôi. Để tăng công dụng trị ho có thể tẩm gừng hoặc sử dụng nước bồ kết.
Dược điển Việt Nam I tập 2 quy định ngâm củ Chóc vào nước vo gạo 1 – 2 ngày, rồi vớt ra, rửa sạch, ngâm với phèn chua 2 ngày, rồi lấy nhấm thử nếu không còn thấy vị tê cay thì lấy đem rửa sạch, để ráo nước, giã đến khi hơi giập rồi phơi sơ qua, phân loại củ to nhỏ, sau đó tầm với nước gừng, ủ từ 2 đến3 giờ rồi đem sao cho cháy cạnh.
Bộ phận sử dụng được của củ Chóc là thân rễ.
Củ Chóc có khoảng 69,9% là nước; 0,1% chất béo; 1,4% protein; 26% các carbonhydro khác; 1% chất sợi; 1,6% các chất vô cơ; 1,3mg % sắt; 35mg % kali; 9mg % sodium; 237mg % kalium, 20mg % phosphor.
Ngoài ra còn có 0,07mg % thiamin; 0,7mg % niacin; 78mg % caroten; 17,5mg % acid folic; 3,7 ppm fluorin; 0,8 % ppm iodin; 22,85mg % cholin (dạng muối chlorid). Dịch chiết cồn củ chóc chứa một hợp chất ở dạng tinh thể và sitosterol. Củ Chóc Việt Nam chứa stigmasterol và alcaloid.
Giáng khí chỉ ho, giáng nghịch chỉ nôn, hỏa đàm táo thấp.
Chủ trị: Nôn, buồn nôn, đầy chướng bụng; ho đờm nhiều; trừ thấp trệ ở người béo bệu.
Chưa có nhiều nghiên cứu dược lý của Củ Chóc (cho vị Bán hạ ở Việt Nam). Tuy nhiên Bán hạ Trung Quốc (Pinellia ternata) có cùng công dụng với Bán hạ ở Việt Nam, đã được chứng minh các tính chất dược lý như sau:
Tác dụng ức chế thần kinh trung ương: Thí nghiệm tiêm dưới da chuột nhắt trắng dịch chiết bán hạ có tác dụng ức chế hoạt động tự nhiên của súc vật thí nghiệm.
Tác dụng chống nôn: Thí nghiệm gây nôn bằng apomorphin hoặc đồng sulfat trên chó và mèo, sử dụng dịch chiết Bán hạ có tác dụng ức chế nôn do đồng sulfat gây ra, còn nước sắc Bán hạ chống nôn do cả 2 chất trên gây nên. Theo y văn cổ, Bán hạ chế lại có tác dụng ức chế nôn do chất gây nôn bị phá hủy trong quá trình bào chế, sao tẩm nhưng Bán hạ sống lại có tác dụng gây nôn.
Tác dụng chống ho: Thí nghiệm gây ho bằng dung dịch cồn iod 1% (1ml) tiêm vào lồng ngực, dùng Bán hạ chế hoặc nước sắc Bán hạ sống cho thẳng vào dạ dày mèo với liều 0,6 – 0,1g/kg cho tác dụng ức chế ho trong 5 giờ. Hiệu lực ức chế ho của Bán hạ liều 0,6g/kg tương đương với codein liều 1mg/kg.
Tác dụng giảm đau: Thí nghiệm gây đau bằng phương pháp bản nhiệt trên chuột nhắt trắng, dùng dịch chiết Bán hạ có tác dụng nâng cao ngưỡng kích thích đau.
Tác dụng giải co thắt cơ trơn: Thí nghiệm trên ruột cô lập chuột lang, dịch chiết từ Bán hạ ức chế co bóp cơ trơn của ruột do acetylcholin gây nên. Ngoài ra, Bán hạ cũng có tác dụng đối kháng yếu với hoạt tính gây co thắt của histamin và bari chlorid.
Đối với tử cung: Thí nghiệm trên tử cung cô lập chuột cống trắng, cao Bán hạ với liều cao ức chế co bóp nhưng liều thấp lại cho tác dụng kích thích co bóp.
Tác dụng hạ nhãn áp: Thí nghiệm cho thẳng vào dạ dày thỏ nước sắc Bán hạ 20% dùng với liều 10ml/kg cho tác dụng hạ nhãn áp, có thể dùng để chữa bệnh glaucoma cấp tính (theo y học Trung Quốc).
Tác dụng chống loét dạ dày: Thực nghiệm cho thấy dịch chiết Bán hạ có tác dụng chống loét dạ dày. Dịch chiết Bán hạ dùng đường tiêm dưới da có tác dụng làm giảm độ acid và ức chế tiết acid dịch vị.
Ở Ấn Độ, củ Chóc tươi có vị cay, có tác dụng kích thích mạnh nhưng quá trình đun nấu hay chế biến vị cay không còn nữa do là hợp chất dễ bay hơi. Củ Chóc còn được sử dụng để chữa bệnh đau bụng và đau dạ dày.
Dùng củ Chóc dạng thuốc sắc phối hợp với vị thuốc khác, liều 4 – 12g/ngày. Phải phối hợp với Hoàng cầm, Bạch truật khi dùng cho phụ nữ có thai.
Củ Chóc có tác dụng chống nôn mửa ở phụ nữ có thai hoặc trong trường hợp đau dạ dày mạn tính, ngoài ra còn chữa hen suyễn ho có đờm, ho lâu ngày với liều 3 – 10g/ngày.
Chữa mụn nhọt sưng đau có thể lấy củ chóc tươi giã nát rồi đắp lên vị trí bị tổn thương.
Chữa ho lâu ngày, ho gió, ho có đờm và nôn mửa
Củ Chóc, rễ Dâu, vỏ Quýt khô, lấy mỗi thứ 150g; lá Chanh, lá Táo, Cam thảo dây, Cát cánh, Ô mai, lấy mỗi thứ 100g, thêm 200g Đường.
Rễ dâu, Cát cánh phơi sấy đến khô giòn, tán bột, củ chóc, vỏ quýt, ô mai bóc lấy cùi giã nhuyễn; Cam thảo dây, lá Chanh, lá Táo sắc với 400ml nước đến còn khoảng 100ml, thêm Đường nấu thành siro. Tất cả trộn đều làm viên 0,5 g. Người lớn dùng 15 – 20 viên/ngày, trẻ em 5 – 15 viên tùy theo độ tuổi. Ngậm làm nhiều lần.
Hoặc củ Chóc 15g, vỏ Quýt 15g, hạt Cải củ 15g, hạt Cải bẹ 10g. Sắc nước uống.
Chữa trúng gió, động kinh rược đờm, chảy dãi không tỉnh, răng cắn không nói được
Dùng củ Chóc nghiền thành bột rồi thổi vào mũi người bệnh cho hắt hơi sẽ tỉnh; chà xát củ Chóc vào lợi răng của người bệnh sẽ há miệng ra và nói được.
Chữa hoắc loạn, bụng đầy trướng
Củ Chóc (chế với Gừng) và Quế, lấy mỗi vị một lượng bằng nhau, đem tán bột, uống với nước sắc lá Lấu và Xương bồ.
Phản Ô đầu. Không phối hợp Củ Chóc với Phụ tử.
Không nên dùng cho người âm hư, khạc máu và ho khan.
Thận trọng sử dụng củ Chóc cho người mang thai.
Nguồn Tham Khảo:
1) Dược điển Việt Nam: //duocdienvietnam.com/cu-choc-than-re/
2) Tra cứu dược liệu: //tracuuduoclieu.vn/cu-choc.html .
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.