Tên tiếng Việt:
Địa long.
Tên khác:
Khâu dẫn; Khúc đàn; Ca nữ; Phụ dẫn; Thổ long; Giun khoang; Trùng hổ; Khưu dẫn…
Tên khoa học:
Pheretima.
Có nhiều chi Giun đất. Tại châu Âu, Lumbricus thuộc họ Đới dẫn Lumbricidae là chi phổ biến. Tại châu Á và châu Úc chỉ chủ yếu thuộc họ Cự dẫn Megascolecidae.
Những chi Giun đất thường gặp ở nước ta mới được xác định tới chi Pheretima, giun khoang là Pheretima aspergillum.
Tại Trung Quốc, người ta thường dùng 2 loài chủ yếu là Allolobophora caliginosa trapezoides và Pheretima asiatica Michaelsen đều thuộc họ Cự dẫn Megascolecidae. Giun Pheretima asiatica là một loài giun lớn, dài khoảng 11 – 38cm, to khoảng 5 – 12mm. Thân có nhiều đốt, ở hai bên thân và ở mặt bụng có 4 đôi lông ngắn rất cứng giúp nó di chuyển, vòng đai chiếm 8 đốt thứ 14, 15 và 16, có 1 lỗ sinh thực cái chiếm giữa đốt thứ 14, lỗ sinh thực gồm 2 lỗ ở 2 bên đốt 18, lỗ nang thụ tinh gồm 3 đôi ở giữa các đốt 6 – 7, 7 – 8 và 8 – 9.
Loại này gặp nhiều ở Quảng Tây, Quảng Đông và Phúc Kiến (Trung Quốc) và có thể có ở các tỉnh biên giới nước ta. Loài Allolobophora caliginosa trapezoides cũng là loài giun lớn, gồm 4 đôi lông cứng, vòng sinh thực chiếm giữa các đốt 26 – 34 có hình yên ngựa, một đôi lỗ sinh thực đực ở đốt thứ 15, một đôi lỗ sinh thực cái ở đốt thứ 14, hai đôi nang thụ tinh ở giữa các đốt thứ 14, hai đôi nang thụ tinh ở giữa các đốt 9 – 10 và 10 – 11.
Ở nước ta, Giun đất thích sống ở những nơi đất ẩm ướt và lắm mùn ở khắp nơi. Ban ngày, Giun đất ở trong tối cho đến khi sương xuống ướt mặt đất thì bò ra ngoài, khi trời mưa cũng có thể gặp Giun đất trong vườn hay sân. Chúng ăn các chất hữu cơ thối rữa có lẫn trong đất. Sau khi ăn đất, chúng sẽ lọc mùn và thải các chất cặn bã và đất ra ngoài.
Muốn bắt Giun đất, người ta đổ nước bồ kết hay nước rau nghể, nước chè vào những nơi có nhiều giun, tức thì giun bò ra. Cho vào tro rơm và rửa sạch bằng nước ấm để loại bỏ chất nhầy dính. Sau đó, đóng đinh đuôi vào một mảnh gỗ, dùng dao sắc cắt từ đầu đến cuối, rửa sạch cát ở bụng bằng nước ấm, rồi treo hoặc phơi nắng. Có nơi người ta chỉ bắt giun về rửa sạch chất nhờn bên ngoài bằng tro và nước nóng rồi đem phơi hoặc phơi nắng cho khô thay vì cắt và rửa đất như đã nói ở trên.
Bộ phận sử dụng được của Địa long là toàn thân.
Từ năm 1911, nhà khoa học Nhật Bản Bát Mộc đã nghiên cứu Giun đất và phát hiện được một chất đặt tên là lumbritin với công thức thô xác định là C259H528O125N47SP3(CdCl3)193H20. Năm 1914, Thái Hiệp nghiên cứu giun đất chiết được một chất độc gọi là terastro – lumbrolysin. Năm 1915, Ngạch Điền Tấn và Điền Trung Bạn Kết lại chiết được một chất gọi là lumbrifebrin có thể là dẫn xuất của tyrosin.
Năm 1921 – 1922, hai tác giả Nhật Bản khác là Thanh Sơn Tân Thứ Lang và Thôn Sơn Nghĩa Ôn lại báo cáo đã chiết từ giun đất được các chất béo, acid, cholesterol, cholin, những chất do thủy phân các acid nucleic và acid amin như adenin và guanin.
Năm 1937, Chu Hoằng Bích, Triệu Thừa Cố, Trương Xương Thiện, nghiên cứu từ loài Giun đất Pheretima asiatica lấy được một chất có tinh thể hình lăng trụ, độ chảy trên 3200C, có chứa nitơ, tác dụng với giấy quỳ cho phản ứng trung tính, phản ứng với acid clohydric muối clohydrat có tinh thể. Năm 1938, các tác giả trên lại chứng minh rằng chất có tinh thể chiết được năm trước là chất hypoxanthine, chất này phản ứng với clorua vàng 2 loại muối vàng là C5H4N4O.AuC13 và C5H4N4O.HCl.AuCl32H2O.
Giun đất có tính hàn, vị mặn. Quy vào 4 kinh: Vị, tỳ, can, thận, có công năng thanh nhiệt hạ sốt, thông kinh, trấn kinh, hoạt lạc, hạ huyết áp, bình suyễn, lợi niệu, tiêu phù…
Tác dụng dược lý của Địa long đã được nghiên cứu và thấy những kết quả tóm tắt sau đây:
Tác dụng hạ sốt: Trong những sách cổ đều nhận rằng Giun đất có tác dụng hạ sốt nặng (đại nhiệt). Từ năm 1914, một tác giả người Nhật (Câu Khẩn) chứng minh rằng trong Giun đất có chất chữa sốt. Năm sau (1915), hai tác giả Nhật Bản khác (Ngạch Điền và Điền Trung) đã thí nghiệm trên súc vật và chứng minh rằng chất trị sốt trong Giun đất là lumbrifebrin. Hai tác giả Nhật Bản khác nữa (Thanh Sơn và Thôn Sơn) lại dùng chất tan trong rượu của Giun đất để thử nghiệm tác dụng giảm sốt, thì kết quả thấy chất tan trong rượu có tác dụng giảm sốt.
Tác dụng giãn khí quản: Năm 1937, Chu Hoằng Bích, Triệu Thừa Cố và Trường Xương Thiệu đã dùng phổi của thỏ và chuột bạch để thử nghiệm đã chứng minh Giun đất có tác dụng làm giãn ống phổi (chi khí quản), để nhìn tác dụng giãn ống phối rõ rệt hơn, trước khi thí nghiệm tiêm vào phổi súc vật chất pilocarpin hay histamin.
Tác dụng kháng histamin: Triệu Thừa Cố và đồng sự đã từng dùng thành phần có nitơ trong Giun đất để xem tác dụng kháng histamin của Giun đất bằng cách tiêm vào tĩnh mạch những con vật còn sống thì thấy rằng chất lấy từ Giun đất có khả năng bảo vệ không chết 50% số con vật được tiêm liều độc chết của histamin.
Tác dụng giảm huyết áp và ức chế sự co bóp của ruột non: Triệu Thừa Cố và đồng sự đã từng dùng chất có nitơ trong Giun đất để thí nghiệm tác dụng hạ huyết áp và ức chế tính co bóp của ruột non và so sánh với chất adenosine thì thấy tác dụng tương tự mặc dù tính chất hóa học không giống nhau.
Tác dụng phá huyết: Theo báo cáo của nhà nghiên cứu Nhật Bản Bát Bộc (1911) thì chất lumbritin có tác dụng phá huyết.
Nhân dân Hàn Quốc (Nam Triều Tiên) có thói quen ăn cháo Giun đất trước khi ngủ để trị bá bệnh và tẩm bổ . Mỗi đêm cháo Giun đất có bán tại các thị trấn và ở ngay thủ đô Hàn Quốc. Trong thời gian thế vận hội Olympic Seoul 1996, Chính phủ Nam Hàn đã cấm bán cháo Địa long trong thời gian thế vận hội vì ngại người nước ngoài không hiểu vị thuốc quý mà coi thường nhân dân Nam Hàn.
Giun đất thường được dùng trong nhân dân làm thuốc trị sốt rét, trị sốt ho hen do tác dụng làm giãn phế quản và còn được dùng trị bệnh cao huyết áp cứng mạch máu, nhức đầu.
Do có nhân purin, Giun đất còn có tác dụng chữa đau nhức khớp xương và lợi tiểu. Ngày dùng từ 3 đến 4 g dưới dạng thuốc bột hoặc từ 6 đến 12 g dưới dạng thuốc sắc. Theo tài liệu cổ Giun đất có tính hàn, vị mặn, vào 3 kinh vị, tỳ và thận. Có tác dụng thanh nhiệt trấn kinh, giải độc, lợi tiểu. Dùng chữa bệnh nhiệt phát cuồng, kinh phong mãn và cấp, ho suyễn, bán thân bất toại, tiểu tiện khó khăn, dùng ngoài đắp mụn nhọt. Không phải thực nhiệt thì không sử dụng được.
Bổ dương hoàn ngũ thang (bài thuốc kinh nghiệm được ghi trong Y lâm cải thác phương):
Dùng trong các trường hợp bán thân bất toại, không nói được, mồm miệng và mắt méo lệch, miệng sùi bọt mép, đi tiểu tiện nhiều lần, bí đại tiện: Hoàng kỳ 15g, xích thượng 6g, đương quy vĩ 8g, địa long, đào nhân, xuyên khung, hồng hoa mỗi vị 4g. Cho thêm 600ml nước, sắc còn 200ml chia 3 lần uống trong ngày. Thêm vào thang thuốc này 4g phòng phong nếu trường hợp mới bị. Uống trong khoảng 4 – 5 lần thì bỏ vị phòng phong đi.
Thần dược cứu mệnh, cứu người sau 4 khắc:
Đơn thuốc này dùng trị những trường hợp cửu khiếu xuất huyết, não bộ xuất huyết, ngũ tạng lục phủ xuất huyết, hôn mê bất tỉnh kéo dài nhiều ngày, phù toàn thân, phù thận, phù tim, đột ngột phát điên không rõ nguyên do (có sốt hoặc không sốt), bí trung tiện, bí đại tiểu tiện, báng bụng trướng nước, bạch đới khí hư nặng, người gầy xanh xao, ngày đêm đáy quần ướt sũng hôi hám,…
Đơn thuốc gồm các vị:
Địa long khô 50g tương đương với 50 con giun đất tươi (liều dùng cho người lớn và trẻ từ 15 – 16 tuổi trở lên), 30g thuốc khô hay 30 con tươi (cho trẻ từ 5 – 6 tuổi đến 13 – 14 tuổi), 20g thuốc khô hay 20 con tươi (cho trẻ 1-2 tháng đến 4-5 tuổi). Đậu xanh, đậu đen, mỗi thứ 100g. Rau bồ ngót bằng 2 – 3 bó bán ở chợ (tương đương 200 – 300g) bằm nhỏ cả cành cả lá. Giun đất còn tươi rọc ra, rửa sạch, sao cho thơm giòn rồi giã nhỏ. Rau và đậu sao cho thơm. Tất cả cho vào nồi hoặc nồi nhôm gang hay siêu đất đều được. Cho vào 4 chén nước (tương đương với hơn 1,2 lít nước), sắc lại còn nửa chén hoặc 1/3 (100 – 150ml), cho người bất tỉnh phải cậy răng đổ.
Cách dùng thuốc này thường chỉ dùng một thang cũng hết bệnh nhưng tác giả bài viết thường dùng 3 thang, trong 3 ngày (tối nước nhất, sáng nước nhì). Hai thang sau để trừ căn và các di chứng như mắt xếch, méo mồm… cho nên khi uống thang thứ 2, thứ 3 bệnh nhân đã tỉnh táo. Vị thuốc có thể pha với đường cho dễ uống. Bồ ngót sao thật khô giòn thì thuốc sẽ có mùi vị thơm ngon. Nếu bồ ngót để tươi không sao, nước thuốc giống chè đậu đen pha với đường, uống rất ngon.
Lưu ý khi sử dụng vị thuốc Địa long:
Không dùng cho trường hợp có hư hàn (sắc mặt thường trắng bệch, tay chân lạnh, sức yếu hay mệt mỏi, tự ra mồ hôi…) mà không có thực nhiệt (nóng sốt, tiểu tiện đỏ gắt, rêu lưỡi vàng, họng khô, khát nước…).
Quá mẫn với bất kỳ thành phần nào của dược liệu.
Địa long là loài động vật phổ biến ở nhiều nơi. Tuy có nguồn gốc từ thiên nhiên nhưng Địa long có chỉ định, chống chỉ định và tác dụng phụ. Quý bạn đọc và người thân không nên tự ý sử dụng hoặc làm theo bài thuốc kinh nghiệm. Quý bạn đọc hãy đến bác sĩ để hiểu rõ tình trạng cơ thể và tham vấn ý kiến. Hãy chia sẻ bài viết nếu thấy hữu ích. Chúng tôi mong muốn nhận được phản hồi cũng như sự quan tâm của quý bạn đọc ở bài viết khác.
Nguồn Tham Khảo:
Tra cứu dược liệu Địa Long: //tracuuduoclieu.vn/giun-dat.html.
Đỗ Tất Lợi (2006). Những cây thuốc và vị thuốc VIệt Nam. Nhà xuất bản Y học.
Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Chung, Bùi Xuân Chương , Nguyễn Thượng Dong, Đỗ Trung Đàm, Phạm Văn Hiền, Vũ Ngọc Lộ, Phạm Duy Mai, Phạm Kim Mãn, Đoàn Thị Nhu, Nguyễn Tập, Trần Toàn. Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.
Hoàng Duy Tân (2006). Đông dược học. Nhà xuất bản Đồng Nai.
Võ Văn Chi (2000). Cây thuốc trị bệnh thông dụng. Nhà xuất bản Thanh Hóa.
Zhenjun Sun. Earthworm as a biopharmaceutical: from traditional to precise. European Journal of BioMedical Research 1(2):28.
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.