Tên Tiếng Việt: Cây điền thất.
Tên khác: Cây điền thất còn được gọi là cốt khí củ, hổ trượng căn, phù linh, nam hoàng cầm, co hớ hườn (Thái), mèng kẻng (Tày), hổng lìu (Dao).
Tên khoa học:Reynoutria japonica Houtt., Polygonum cuspidatum Sieb. et Zucc., P. reynoutria Mak., Reynoutria elataNak.. Thuộc họ Rau răm (Polygonaceae).
Cây nhỏ, sống lâu năm. Rễ mọc bò dưới đất, phình thành củ cứng, ruột màu vàng, vỏ màu nâu đen. Thân hình trụ, nhẵn, mọc thẳng đứng, cao 0.5 – 1m, thường có những đốm tím màu hồng. Lá mọc so le, cuống ngắn, hình trứng, đầu tù, hơi nhọn, mép nguyên, dài 5 – 12cm, rộng 3.5 – 8cm, mặt trên màu lục sẫm, có khi nâu đen, bẹ chìa ngắn.
Cụm hoa ngắn hơn lá, mọc thành chùm ở kẽ lé; hoa nhỏ màu trắng, hoa đực và hoa cái riêng; bao hoa có 5 phiến, hoa đực có 8 nhị; hoa cái có bầu ba góc.
Quả 3 cạnh, màu nâu đỏ.
Mùa hoa quả: Tháng 10 – 11.
Cây điền thất có thể bị nhầm lẫn vì có nhiều cây cũng mang tên “cốt khí” như cốt khí thân tím (T. purpurea Pers.), cốt khí muồng hay cốt khí hạt (Cassia occidentalis L.) thuộc họ Vang (Cacsalpiniaceae), cốt khí dây (Sabia olacifoliaStapf) họ Thanh phong (Sabiaceae) và cốt khí thân trắng (Tephrosia candida DC.) thuộc họ Đậu (Fabaceae).
Cây điền thất có nguồn gốc ở vùng Đông Á, sau lan xuống khắp vùng cận nhiệt đới, bao gồm Trung Quốc, Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam, Lào và một vài nơi khác.
Ở Việt Nam, cây mọc hoang dại ở vùng núi cao, từ 1000 – 1600m và được trồng rải rác trong nhân dân ở vùng trung du và đồng bằng Bắc Bộ.
Cây điền thất ưa ẩm và ưa sáng thường mọc thành cụm trong các thung lũng, nơi gần nguồn nước (như Sa Pa). Vào mùa đông cây rụng lá; ra hoa quả nhiều hàng năm, có thể mọc chồi từ thân rễ. Do hiếm gặp trong tự nhiên, nên có tác giả đã đưa cây điền thất vào Sách Đỏ Việt Nam 1996 để lưu ý bảo vệ.
Cây điền thất có thể được thu hoạch quanh năm, nhưng tốt nhất là vào tháng 8 – 9 (có nơi thu hái vào tháng 2 – 3). Đào lấy rễ cây, rửa sạch đất cát, bỏ rễ con, phơi khô. Có thể thái thành phiến mỏng.
Điền thất không mùi, vị hơi đắng. Loại điền thất khô, có nhiều bột, thịt vàng, không mốc, không mọt, không vụn nát là tốt. Để nguyên to đường kính trên 2cm, hoặc thái vát thành phiến mỏng dưới 4mm.
Bộ phận sử dụng được của cây điền thất là rễ. Y học cổ truyền dùng rễ cây điền thất thay cho hoàng cầm với tên hoàng cầm nam.
Rễ cây điền thất có chứa các chất thuộc nhóm:
Ngoài ra, còn có các nguyên tố Cu, Fe, Mn, Zn, K.
Ở Việt Nam, cây điền thất là một vị thuốc dùng chữa tê thấp, do bị ngã, bị thương mà tổn thương đau đơn; còn là một vị thuốc thu liễm cầm máu.
Vị thuốc này được ghi trong bộ Bản thảo cương mục của Lý Thời Trân (Trung Quốc, thế kỷ XVI). Theo tính chất ghi trong tài liệu cổ thì vị thuốc có tác dụng lợi tiểu, thông kinh, giảm đau, giảm độc, dùng cho những người bị kinh nguyệt tắc trở, kinh nguyệt khó khăn đau đớn, chấn thương huyết ứ gây đau, đẻ xong huyết ứ, bụng trướng, tiểu tiện khó khăn.
Điều hòa mỡ máu
Tác dụng điều hòa mỡ máu của các hợp chất stilben bao gồm resveratrol và polydatin từ cây điền thất đã được nghiên cứu trên mô hình chuột. Polydatin (1,71mmol/L) ức chế sự co mạch do norepinephrine gây ra theo cách không cạnh tranh ở thỏ. Nếu polydatin (100mg/kg) được tiêm vào dạ dày cho chuột được nuôi bằng hỗn hợp dầu ngô-cholesterol-axit cholic, thì mức chất béo trung tính đã giảm 40% so với nhóm chứng. Ngoài ra, polydatin còn ngăn ngừa sự biến dạng tiểu cầu và ức chế phản ứng giải phóng tiểu cầu của thỏ phụ thuộc vào liều lượng (6,7, 26,8 và 107,2μmol/L). Hơn nữa, trong mô hình thỏ có hàm lượng chất béo/cholesterol cao, polydatin (cho uống 25 – 100 mg/kg/ngày trong 15-21 ngày) rõ ràng đã làm giảm nồng độ cholesterol toàn phần trong huyết thanh, chất béo trung tính và LDL-c; tỷ lệ cholesterol toàn phần/HDL-c và hệ số gan (LC) cũng giảm.
Nếu resveratrol (50mg/kg) được tiêm vào dạ dày chuột, quá trình tạo mỡ từ 14C-palmitate trong gan chuột giảm xuống 47% mức kiểm soát. Trong ống nghiệm, chiết xuất nước của cây điền thất có tác dụng acyl-coenzym A-cholesterol acyltransferase (ACAT) đã được nghiên cứu bằng cách sử dụng các microsome chuột phân lập làm nguồn enzyme. Kết quả này cho thấy chiết xuất nước ức chế đáng kể hoạt động ACAT theo cách phụ thuộc vào liều lượng và 40μg/mL chiết xuất này có thể ức chế đáng kể hoạt động ACAT tới 50% so với nhóm chứng. Trong khi đó, resveratrol cũng có thể làm giảm hoạt động ACAT theo cách phụ thuộc vào liều lượng (107 – 103mol/L).
Chống viêm
Chiết xuất của cây điền thất có thể ức chế sự biểu hiện iNOS mRNA do lipopolysaccharide gây ra (ở liều 10, 30 và 60μg/mL) và sản xuất NO (IC50 là 25,273,2 μg/mL). Các chất chiết xuất (20 và 60 μmol/L) kết hợp với chất ức chế NOS đã ức chế đáng kể sự biểu hiện mRNA của cyclooxygenase 2 (COX-2).
Bảo vệ gan
Kết quả kiểm tra hình thái của chuột bị tổn thương do thiếu máu cục bộ ở gan cho thấy chiết xuất nước của cây điền thất (uống 400 mg/con/ngày, trong 7 ngày) đã cải thiện vi tuần hoàn của mô gan bị tổn thương và ức chế sự bám dính của bạch cầu, huyết khối và tế bào nội mô. Vì vậy, loại cây này được coi là có tác dụng thúc đẩy quá trình tái tạo tế bào gan và phục hồi chức năng gan. Ngoài ra, chiết xuất nước của loại cây này (400 mg/con/ngày uống trong 7 ngày) có thể bảo vệ chức năng gan ở chuột bị tắc tĩnh mạch cửa ở gan. Ngoài ra, polydatin cũng có thể bảo vệ tế bào gan khỏi tổn thương oxy hóa do H2O2 gây ra.
Gần đây, polydatin (50, 100 mg/kg/ngày, uống trong 5 ngày) được phát hiện có tác dụng bảo vệ gan đáng kể đối với tổn thương gan cấp tính ở chuột do CCl4 gây ra, và các cơ chế này có thể liên quan đến tác dụng chống oxy hóa và chống viêm của nó.
Hoạt tính estrogen
Emodin và emodin-8-O-β-D-glucopyranoside đã được phân lập từ chiết xuất metanol của cây điền thất có thể tăng cường sự tăng sinh của tế bào MCF-7, một dòng tế bào nhạy cảm với estrogen; emodin ức chế 17 β-estradiol để liên kết với các thụ thể estrogen của con người với giá trị Ki lần lượt là 0,77 và 1,5 μM đối với ERα và Erβ.
Hơn nữa, hoạt tính estrogen của cây điền thất và các phân đoạn của nó đã được nghiên cứu bằng xét nghiệm sàng lọc nấm men tái tổ hợp; kết quả cho thấy các phần etyl axetat (Hzs1 và Hzs6) của chiết xuất etyl axetat của cây này thể hiện hoạt tính estrogen mạnh (EC50 lần lượt là 104 và 103 g/L).
Chống oxy hoá
Polydatin (3,2, 6,4, 12,8 và 25,6μmol/L) ức chế giai đoạn đầu (1 – 6 phút) của đợt bùng nổ oxy hoá của bạch cầu hạt theo cách phụ thuộc vào liều lượng. Ngoài ra, polydatin có khả năng loại bỏ các gốc oxy tự do mạnh (IC50 lần lượt là 14,6, 29,6 và 13,0μmol/L đối với các gốc superoxide (O2), gốc hydroxyl (OH) và hydro peroxide (H2O2)). Sau khi chuột được điều trị bằng polydatin, hàm lượng nước và malondialdehyd trong não giảm xuống; hoạt động của superoxide dismutase, catalase và glutathione peroxidase của vỏ não và vùng đồi thị tăng lên; liều polydatin tối ưu để giảm gốc tự do là 12 mg/kg (tiêm tĩnh mạch). Ngoài ra, dịch chiết của loại cây này còn thể hiện hoạt tính thu dọn tốt các gốc DPPH; 100 μg/mL chiết xuất này có hoạt tính thu hồi đáng kể nhất trên 90%.
Chống ung thư
Các hợp chất và chiết xuất của Polygonum cuspidatum cũng có tác dụng chống ung thư. Các chất có hiệu quả chính được cho là resveratrol và emodin.
Chiết xuất nước của loại cây này (20 g/kg/ngày, tương đương với thuốc thảo dược thô, trong 10 ngày) đã ức chế sự phát triển của ung thư biểu mô Ehrlich và kéo dài tuổi thọ của chuột mang khối u. Chiết xuất ethanol của loại cây này (0,2, 0,4, 0,6 và 0,8mg/mL) cho thấy tác dụng chống tăng sinh đối với các tế bào ung thư phổi ở người của tế bào A549 và H1650 theo cách phụ thuộc vào liều lượng.
Resveratrol (2,5 và 10 mg/kg, tiêm phúc mô trong 5 ngày) làm giảm đáng kể thể tích khối u phổi Lewis (42%) và trọng lượng khối u (44%), đồng thời ngăn chặn sự phát triển và di căn của khối u trong phổi (56%) bằng cách ức chế tổng hợp DNA của các tế bào khối u cũng như tân mạch do khối u gây ra ở chuột mang khối u phổi Lewis di căn.
Ngày dùng 6 – 10g điền thất dưới dạng thuốc sắc hoặc ngâm rượu cùng các vị thuốc khác mà uống.
Chữa thương tích, ứ máu, đau bụng
Rễ điền thất 20g, cây lá móng 16g, nước 300ml. Sắc còn 150ml, cho thêm vào 20ml rượu, chia hỗn hợp làm 2 lần uống trong ngày.
Chữa phong thấp, đau nhức xương
Rễ điền thất 12g, rễ cỏ xước 8g, đơn gối hạc 12g, hy thiêm 8g, hạt cau già 6g, uy linh tiên 6g.
Tất cả, trừ hạt cau, đem phơi khô, thái nhỏ, sao vàng, hạ thổ. Sắc với 600ml nước còn 200ml, uống làm 2 lần trong ngày. Dùng 7 – 10 ngày. Có thể nấu cao hỗn hợp nếu số lượng dược liệu nhiều, sau đó pha rượu hoặc siro dùng dần.
Hoặc rễ điền thất, đơn gối hạc, rễ tầm xoong, rễ cỏ xước, lá lốt, cam thảo dây, dây đau xương (mỗi vị 20g). Sắc với nước, uống trong ngày.
Một số lưu ý khi sử dụng cây điền thất:
Nguồn Tham Khảo:
- Peng W, Qin R, Li X, et al. Botany, phytochemistry, pharmacology, and potential application of Polygonum cuspidatum Sieb.et Zucc.: A review. Journal of Ethnopharmacology. 2013;148(3):729-745. doi://doi.org/10.1016/j.jep.2013.05.007.
- Ke J, Li MT, Xu S, et al. Advances for pharmacological activities of Polygonum cuspidatum – A review. Pharm Biol. 2023;61(1):177-188. doi:10.1080/13880209.2022.2158349.
- Đỗ Huy Bích; Đặng Quang Chung. Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam tập I. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật. Hà Nội; 2006.
- Đỗ Tất Lợi. Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Nhà xuất bản Y học. Hà Nội; 2006.
- Phạm Diệp; Lê Văn Thuần. Cây thuốc bài thuốc và biệt dược. Nhà xuất bản Y học. Thành phố Hồ Chí Minh; 2000.
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.