Đước hay trang, vẹt, đước bợp, đước xanh, sú, có tên khoa học Rhizophora apiculata Blume. Đây là một loài thực vật trong họ Rhizophoraceae.
Đây là loại cây to, cao 10 – 20m, có rất nhiều rễ chống dài, trên rễ có các lỗ bì, cành sần sùi không thẳng. Lá mọc đối có hình mác, dài 7 – 13cm, rộng 4 – 6cm, gốc hình nêm, đầu gần tròn hoặc tù, gân chính lõm ở mặt trên, hằn rõ ở mặt dưới và có những chấm đen nhỏ, cuống lá mập, dài 1 – 3 cm, lá kèm sớm rụng.
Cụm hoa mọc thành xim nhiều nhánh ở kẽ lá, lá bắc hình tam giác. Hoa màu vàng có 2 lá bắc con kèm theo, dài và tràng dày có 4 phiến, hình mác, ở mép nhị 8 có lông, 4 cái trên tràng, 4 cái trên đài, bầu nửa hạ, 2 ô.
Quả hình trứng dài, đài tồn tại, đầu kéo dài, chứa 1 hạt, màu nâu lục nhạt.
Mùa hoa quả: Tháng 10 đến 12.
Chi Rhizophora L tại Việt Nam có 3 loài đều là những cây gỗ quan trọng trong nhóm thực vật rừng ngập mặn ven biển. Cây được phân bố ở vùng bờ biển những nước nhiệt đới như Trung Quốc (đảo Hải Nam), Campuchia, Đài Loan, Thái Lan, Pakistan, Malaysia, Ấn Độ, Philippin, ở biển Đông Phi, Indonesia, Bắc Australia, Ceisel, đảo Morris và Mangas. Ở Việt Nam, đước được phân bố ở hầu hết các tỉnh dọc bờ biển từ Quảng Ninh đến Kiên Giang và đảo Phú Quốc.
Cây này thường mọc trên đất nhão hoặc mới hình thành ở vùng cửa sông. Loại đất nhão này là đất phù sa, do nước sông từ đất liền hình thành rồi do thực vật ven biển bồi đắp. Để duy trì sự sống trên đất phù sa thường bị ngập do thủy triều, rừng ngập mặn (và một số loài thực vật khác ở đây) đước có bộ rễ đặc biệt phát triển có khả năng chống chịu.
Cây sinh trưởng mạnh trong mùa mưa ẩm, khoảng 2 năm tuổi thì bắt đầu cho trái đầu tiên. Trái đước dài, hình trụ, khi già rơi thẳng xuống bùn, nhanh chóng bén rễ và nảy mầm. Đây cũng là một dạng rừng ngập mặn thích nghi cao, có thể tồn tại và phát triển trong điều kiện thủy triều.
Cùng với nhiều loài thực vật khác ở ven biển, rừng ngập mặn tạo nên một hệ sinh thái đặc biệt gọi là hệ sinh thái rừng ngập mặn nhiệt đới (RNM). Do hệ thực vật ở đây phát triển, lớp bùn dần sinh sôi, bồi đắp và mở rộng ra biển.
Quá trình này được coi là hình ảnh ban đầu sống động của các động vật nguyên sinh để tạo ra các thảm thực vật nhiệt đới bền vững khác trong tương lai. Ngoài ra, rừng ngập mặn là nơi sinh sống của nhiều loại tôm, cua, cá, bò sát, chim và động vật có vú (khỉ). Tuy nhiên, gần đây, một số rừng ngập mặn ở phía nam đã bị phá hủy để tạo ra các khu vực nuôi trồng thủy sản. Bảo tồn và trồng lại rừng ngập mặn Việt Nam là một ưu tiên ngắn hạn và dài hạn.
Bộ phận sử dụng của đước là rễ, vỏ thân và lá.
Vỏ thân đước là nguồn cung cấp tanin ngưng tụ với hàm lượng cao hay thấp tùy theo từng nước như Ấn Độ 25 – 35%, Malaysia 30 – 40%, Tanganica 36,5%, Borneo 20%, Philippin 27,6%.
Một tài liệu phân tích cho thấy cao đặc vỏ thân và gỗ đước thấy tanin chứa theo thứ tự: 60 – 65% và 55 – 62% không tanin 34,5 – 39,5% và 37,7 – 44,7%.
Quả ăn được và được dùng để chế rượu vang. Lá, quả chín chứa tanin, quả chưa chín theo thứ tự 9, 0 và 4,2%, 1 – 12. Hoa là nguồn cung cấp mật ong. Một tài liệu cho thấy mật ong này có độc tính (The Wealth of India IX. 1972).
Theo Prosea 3 (1992), vỏ đước chứa tanin 8 – 40%, nhiều furfurol và pentosan. Tro chứa vôi 18%, Ca carbonat 70% có thể sử dụng làm phân bón.
Lá chứa hoạt chất 1– hydroxy– 5– oxo– bicyclo (6, 4, O) dodecan.
Theo Sasaki Tsuyoshi và cs, 1993, lá chứa các acid béo, alcol, parafin. Rễ có các acid béo ở dạng ester, các hợp chất phenol. Vỏ thân có hợp chất có oxy,các acid béo ở dạng ester (thành phần chính). Ngoài ra, đước còn có chứa spirost và 1,2-dithiolane.
Đước có vị chát, có tác dụng thu liễm và hoạt huyết.
Theo các báo cáo tài liệu nước ngoài, vỏ sẫm màu của đước có tác dụng làm se khít lỗ chân lông. Tác giả người Nhật Bản Sakaki Tsuyoshi báo cáo rằng chất chiết xuất từ rễ cây đước được sử dụng trong các thí nghiệm với bào tử Penicillium cho thấy hoạt tính kháng nấm đáng kể. Dạng chiết xuất từ cây đước cũng có hiệu quả chống lại mối mọt, và thành phần hoạt chất của nó được xác định là 1,2- dithiolane – 1- oxide.
Đước mới được sử dụng trong phạm vi kinh nghiệm dân gian. Vỏ cây đước dùng chữa tiêu chảy, vết thương chảy máu, phụ nữ đi ngoài ra máu, tiểu ra máu, viêm họng. Ở Ấn Độ, vỏ cây còn được dùng để chữa bệnh tiểu đường, mặc dù các thí nghiệm dược lý gần đây trên động vật cho thấy vỏ cây không có tác dụng hạ đường huyết. Ở Malaysia, nước sắc vỏ và lá cây đước dùng cho phụ nữ sắc uống khi sinh đẻ, và một ít nước sắc rễ cho trẻ sơ sinh.
Ngoài công dụng chữa bệnh, vỏ cây còn được dùng trong công nghiệp thuộc da và nhuộm lưới đánh cá. Theo tài liệu Ấn Độ, quả có vị ngọt và ăn được, nước ép từ quả được dùng để làm các loại rượu nhẹ. Chồi non của cây ngập mặn được dùng làm rau. Gỗ là nguyên liệu thô để xây nhà và làm trụ đỡ cho các mỏ khai thác.
Chưa có thông tin liều dùng.
Chưa có thông tin.
Một số lưu ý khi sử dụng cây đước:
Dị ứng với bất kỳ thành phần nào.
Phụ nữ có thai, cho con bú cần thận trọng.
Đước là loài cây phổ biến ở nhiều nơi. Tuy có nguồn gốc từ thiên nhiên nhưng Đước có chỉ định, chống chỉ định và tác dụng phụ. Quý bạn đọc và người thân không nên tự ý sử dụng hoặc nghe theo bài thuốc kinh nghiệm. Quý bạn đọc hãy đến bác sĩ để hiểu rõ tình trạng cơ thể và tham vấn ý kiến. Hãy chia sẻ bài viết nếu thấy hữu ích. Chúng tôi mong muốn nhận được phản hồi cũng như sự quan tâm của quý bạn đọc ở bài viết khác.
Nguồn Tham Khảo:
Tra cứu dược liệu Đước: //tracuuduoclieu.vn/duoc.html.
Đỗ Tất Lợi (2006): Những cây thuốc và vị thuốc VIệt Nam, nhà xuất bản Y học.
Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Chung, Bùi Xuân Chương, Nguyễn Thượng Dong, Đỗ Trung Đàm, Phạm Văn Hiền, Vũ Ngọc Lộ, Phạm Duy Mai, Phạm Kim Mãn, Đoàn Thị Nhu, Nguyễn Tập, Trần Toàn. Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam. Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật Hà Nội.
Phan Nguyên Hồng (chủ biên) (1997). Vai trò của rừng ngập mặn Việt Nam. Kỹ thuật trồng và chăm sóc. Nhà xuất bản Nông Nghiệp – Hà Nội.
Viện Điều Tra Quy Hoạch rừng (1982). Cây gỗ kinh tế, tập V: 636. Nhà xuất bản Nông Nghiệp – Thành phố Hồ Chí Minh.
Gurudeeban Selvaraj, Satyavani Kaliamurthi, Ramanathan Thirungnasambamdam. Identification of Medicinal Mangrove Rhizophora apiculata Blume: Morphological, Chemical and DNA Barcoding Methods. International Journal of Scientific & Engineering Research, Volume 6, Issue 2, February-2015.
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.