Tên Tiếng Việt: Găng tu hú.
Tên khác: Găng trâu, Găng gai, Cây tu hú, Mây nghiêng pa, Găng tía.
Tên khoa học:Catunaregam spinosa, thuộc họ Cà phê – Rubiaceae.
Tên đồng nghĩa:Randia dumetorum Benth, thuộc họ Cà phê – Rubiaceae.
Găng tu hú là loài cây nhỡ hoặc cây gỗ nhỏ cao tới 8m. Thân cây phân nhánh nhiều, có gai to, nhọn, dài từ 5 đến 15mm. Lá cây có dạng xoan ngược, tù hay gần nhọn ở đầu, nhọn sắc ở gốc, nhẵn, ráp hay có lông mềm trên cả hai mặt, gần dai và dài từ 2,5 đến 7cm, rộng từ 1,5 đến 3cm. Hoa của găng tú hú có màu vàng lục hoặc màu trắng đơn thường, và hầu như hoa thường không có cuống.
Quả găng tu hú có dạng quả mọng, hình cầu hoặc hình trứng, đường kính từ 2,5 đến 5cm. Bề ngoài của quả nhẵn và quả có mang các lá đài đồng trưởng, màu vàng. Hạt của cây nhiều, có màu đen và chìm trong nạc của quả.
Sinh thái: Cây găng tu hú thường mọc hoang ở ven rừng và trên các đồi cây bụi.
Cây thường ra hoa kết quả từ tháng 3 đến tháng 11.
Cây găng tu hú mọc ở khắp các vùng viễn đông nhiệt đới và Ðông Phi châu nhiệt đới. Găng tu hú rất phổ biến ở khắp nước ta. Cây có đặc điểm rất nhiều gai nên thường trồng làm hàng rào.
Găng tu hú là loại cây bụi gai ưa sáng và chịu hạn tốt, thường mọc trong các trảng cây bụi ở đồi, đất sau nương rẫy. Cây có thể phát triển được trên nhiều loại đất, kể cả nơi đã bị bào mòn nhiều và trơ tầng đá ong cằn cỗi. Bộ rễ của cây khoẻ và có thể dài hơn 1m. Cây thường rụng lá vào mùa đông và ra hoa quả nhiều suốt quanh năm. Cây găng tu hú tái sinh tự nhiên chủ yếu từ hạt. Ở vùng núi, người ta thường trồng găng tu hú ở các bờ rào để bảo vệ nương rẫy.
Ở Việt Nam, cây thường phân bố ở Sơn La, Lạng Sơn, Quảng Ninh, Hải Phòng, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Thanh Hóa, Nghệ An, Thừa Thiên – Huế, Đà Nẵng, Đồng Nai. Ngoài ra, cây còn có ở các nước nhiệt đới châu Á và Đông Phi châu.
Bộ phận sử dụng của cây là quả, rễ và vỏ cây.
Quả thường được thu hái vào mùa thu, đông. Rễ được thu hái quanh năm. Các bộ phận đều có thể dùng tươi hay phơi khô dùng dần.
Từ bột rễ, đã chiết được scopolatin, cơm quả chứa saponin trung tính và acid, tinh dầu và acid nhựa. Quả khô chứa một lượng nhỏ saponin kết tinh gọi là ursosaponin, ngoài ra, trong quả găng tu hú còn có β-sitosterol và một triterpen mới.
Theo đông y, găng tu hú có các tác dụng sau đây: Quả làm kích thích gây nôn. Cơm quả cầm lỵ, trừ giun, gây sẩy thai. Vỏ quả làm săn da. Vỏ cây se, có tác dụng bổ và lợi tiêu hóa. Nước chiết vỏ rễ có tác dụng diệt trùng.
Dùng trong thực phẩm
Trong dân gian, lá găng tu hú thường được dùng làm thạch (Sương sâm). Rễ nghiền ra dùng duốc cá.
Ở Ấn Độ, quả khi còn xanh có thể dùng để duốc cá. Cơm quả dùng trị lỵ và trừ giun; cũng dùng làm thuốc gây nôn. Người ta đem tán quả cây thành bột đắp vào lưỡi và vòm khẩu cái trị sốt và đau ốm của trẻ em khi mọc răng. Ngoài ra, cây găng tu hú cũng dùng trị ỉa chảy và lỵ. Vỏ rễ dùng hãm uống trị đau bụng. Người ta cũng đập giập vỏ thả xuống nước để duốc cá.
Tác dụng điều trị về xương khớp, sưng đau
Ở Trung Quốc, người ta gọi găng tu hú là Sơn thạch lựu. Rễ và quả dùng trị đòn ngã và trừ phong thấp. Quả, rễ và vỏ cây được sử dụng làm thuốc, có thể dùng để gây nôn mửa. Lá cây giã lẫn với đường để đắp tiêu sưng đau.
Ở Ấn Độ, vỏ cây dùng làm thuốc uống trong và cũng dùng ngoài đắp trị đau xương trong khi bị sốt; dùng ngoài đắp để giảm đau trong bệnh thấp khớp.
Tác dụng khác
Dân gian thường lấy cành non và mầm giã nát đắp vào chỗ bị gai cắm vào, có thể lôi gai ra được.
Vỏ quả có thể đun nước rửa bệnh ngoài da.
Ở nước ta thấy ít dùng cây này làm thuốc. Thường người ta chỉ dùng giật quần áo thay xà phòng đối với những hàng tơ lụa không chịu được xà phòng và không bị ảnh hưởng của chất màu của nước sắc hay nước ngâm của quả găng.
Vỏ rễ và thân dùng hãm uống để điều kinh. Quả dùng nhuộm vàng, lại dùng ngâm lấy nước trừ giun đất và đỉa.
Tại các nước khác (Ấn Độ) người ta dùng quả khô làm thuốc gây nôn với liều 2,5g (sấy khô tán nhỏ) và chữa lỵ với liều 1 – 2g.
Cây găng tu hú cũng dùng chữa mụn nhọt lở loét (lấy quả Găng tu hú bổ đôi, bỏ hạt cho vôi vào, lấy đất sét bọc ngoài, đốt tồn tính. Sau đó bỏ đất, tán thành bột rắc chung quanh vết loét).
Ngoài ra, găng tu hú còn được bào chế làm thuốc đắp ngoài dưới dạng tươi hoặc bột dược liệu khô pha với nước. Liều lượng tùy chỉnh cho phù hợp với diện tích vùng cần điều trị.
Chữa mụn nhọt, lở loét
Dùng quả găng bổ đôi, bỏ hột, cho vôi vào, lấy đất sét bọc ngoài, đốt tồn tính. Sau đó ta bỏ đất, tán quả thành bột rắc quanh nơi loét (kinh nghiệm nhân dân).
Chữa vết đốt côn trùng, rắn rết cắn
Dùng lá găng tu hú tươi, rửa sạch rồi ngâm với muối 15 phút. Để lá cho thật ráo rồi cho vào cối giã nát, pha thêm vào một ít nước đun sôi để nguội. Chắt nước cốt uống, phần bã giữ lại đắp trực tiếp lên vết đốt sẽ giúp giảm sưng ngứa.
Chữa mệt mỏi, yếu sức ở phụ nữ sau sinh
Dùng lá găng tu hú đã phơi khô. Lấy 20 – 30g dược liệu khô sắc với 4 bát nước cho cạn còn 1 bát. Gạn ra chia 2 phần uống vào buổi sáng và buổi chiều. Dùng liên tục hàng ngày 1 thang, duy trì trong vòng 1 tháng hoặc khi thấy sức khỏe hồi phục.
Điều trị cho trẻ nhỏ mọc răng bị sốt, khó chịu trong người
Dùng quả găng tu hú sấy hoặc phơi khô, nghiền thành bột mịn. Ta lấy 3 – 5g bột rắc vào lưỡi hoặc đắp vào vòm khẩu cái của bé. Tùy theo tình trạng sốt mà có thể dùng thuốc 1 – 2 lần trong ngày, dùng trong khoảng 3 ngày hoặc khi trẻ bớt sốt, khó chịu trong người.
Chữa đau xương cho các trường hợp đang bị sốt
Cách 1:
Dùng 15g vỏ quả găng, 400ml nước, đem sắc uống. Đun cho ấm thuốc sôi mạnh rồi vặn nhỏ lửa, để liu riu cho đến khi thuốc cạn còn 100ml. Chờ cho thuốc nguội gạn uống hết 1 lần hoặc chia làm 2 lần uống vào buổi sáng và buổi chiều.
Cách 2:
Dùng vỏ quả găng tu hú phơi khô, nghiền thành bột nhuyễn mịn. Lấy bột thuốc pha với lượng nước vừa đủ tạo thành hỗn hợp đặc sệt. Đắp thuốc vào chỗ xương bị đau nhức và để trong 2 – 3 tiếng. Có thể dùng băng gạc để bó cố định lại. Mỗi ngày đắp thuốc 1 – 2 lần liên tục trong vài ngày sẽ thấy xương khớp bớt đau nhức rõ rệt.
Găng tu hú chữa đau bụng
Dùng 15g vỏ quả, 400ml nước, đem sắc uống. Đun nhỏ lửa khoảng 20 phút cho thuốc cô đặc lại. Gạn thuốc uống khi còn ấm mỗi ngày 1 thang, dùng duy trì từ 3 đến 5 ngày.
Lấy dằm, gai đâm ra khỏi da
Cách 1:
Dùng mầm và cành non của găng tu hú rửa kỹ với nước muối để khử khuẩn. Giã nát rồi đắp thuốc vào khu vực bị gai đâm sâu vào da. Băng cố định lại sau vài tiếng gai sẽ tự trồi lên.
Cách 2:
Lấy cành non và mầm dược liệu phơi khô, tán bột. Sau đó pha bột với lượng nước vừa đủ làm thuốc đắp kích thích gai trồi lên trên bề mặt da. Khi gai trồi lên thì dùng nhíp đã được tiệt trùng gắp gai ra ngoài.
Chữa bệnh lỵ, đi ngoài phân lỏng nhiều lần trong ngày (tiêu chảy)
Lấy 120g vỏ rễ cây găng tu hú phơi khô, sắc với 500ml nước đến khi còn 100ml thì chắt nước thuốc chia 2 lần uống.
Giảm đau nhức xương khớp cho người bị bệnh thấp khớp
Quả găng tu hú tách bỏ hạt lấy vỏ, phơi khô, tán bột. Mỗi ngày 2 lần lấy bột thuốc pha với nước rồi đắp vào vị trí bị đau do bệnh thấp khớp. Lưu lại thuốc ít nhất 3 tiếng mới rửa sạch lại.
Điều trị bệnh phong thấp bằng găng tu hú
Cách 1:
Dùng 20g dược liệu, bao gồm cả rễ và quả phơi cho hơi héo vỏ. Sắc dược liệu với 600ml nước đến khi chỉ còn khoảng 200ml. Để thuốc nguội còn hơi âm ấm, gạn nước chia uống 2 lần. Duy trì điều trị cho đến khi bệnh khỏi hoàn toàn.
Cách 2:
Dùng rễ và quả sấy khô, nghiền bột mịn. Pha bột với nước để tạo thành hỗn hợp sệt mịn và đắp thuốc trực tiếp lên những chỗ bị đau nhức, sưng tấy do phong thấp. Chờ 5 – 10 phút sau thuốc sẽ khô. Có thể dùng băng gạc quấn cố định lại để thuốc không bị rơi ra ngoài. Lưu lại thuốc trong 3 tiếng rồi gỡ ra. Tiếp tục dùng trước lúc đi ngủ và để qua đêm nhằm giảm cơn đau nhức khớp.
Chữa tổn thương sưng đau
Dùng 20g lá cây găng tu hú hoặc nhiều hơn tùy theo diện tích bị tổn thương. Cho vào cối giã nát cùng với một ít đường. Lấy bã thuốc đắp một lớp mỏng lên khu vực bị tổn thương. Lưu lại thuốc trong 3 tiếng rồi gỡ ra. Thay băng và đắp lại đến khi nào giảm sưng đau.
Bồi bổ sức khỏe, kích thích tiêu hóa, an thần, chữa mất ngủ, giảm mệt mỏi
Dùng 5 – 10 quả găng tu hú chín vàng, bổ đôi để lấy hết hạt bỏ đi. Phơi khô dược liệu, giã nhỏ, cho vào chảo nóng sao chung với 10g đỗ đen, sau đó ngâm với 200ml rượu. Dùng rượu thuốc hằng ngày, mỗi lần uống 1 muỗng canh (khoảng 5ml) vào 3 lần trước bữa ăn sáng, trưa và tối. Trường hợp bị bệnh mất ngủ thì liều cuối cùng nên để uống trước khi đi ngủ.
Điều trị các vấn đề ngoài da
Dùng 50g vỏ quả sắc với 1 lít nước lọc, đun trong 15 phút. Chờ cho thuốc nguội, lấy ngâm và rửa vùng da bị bệnh để cải thiện các vấn đề ngoài da.
Chữa tắc kinh nguyệt, điều kinh
Dùng 15g vỏ rễ và thân cây găng tu hú hãm uống thay trà. Khi hãm thuốc nên để ít nhất 20 phút mới rót uống. Dùng thuốc 1 – 2 lần trong ngày sẽ giúp chu kì kinh nguyệt được đều đặn và ổn định hơn.
Không sử dụng dược liệu liên tục trong thời gian dài mà chưa được sự đồng ý của bác sĩ.
Phụ nữ mang thai và trẻ em không sử dụng khi chưa có sự chỉ định từ bác sĩ chuyên môn.
Sử dụng dược liệu đúng liều lượng tương ứng với từng bệnh đã được hướng dẫn.
Thuốc sắc từ cây găng tu hú chỉ nên uống hết trong ngày, mỗi lần sử dụng cần hâm nóng lại. Tránh để qua ngày sẽ bị ôi thiu và mất tác dụng.
Trường hợp dùng thuốc đắp dạng tươi nên rửa sạch dược liệu và ngâm trong nước muối trước khi sử dụng để đảm bảo tổn thương không bị nhiễm trùng nặng hơn.
Cần chú ý phân biệt cây găng tu hú với các thảo dược khác cũng được gọi với cái tên tương tự như cây nàng nàng, găng trắng, cây ngấy hương, găng vàng.
Nguồn Tham Khảo:
Từ điển cây thuốc Việt nam – Võ Văn Chi.
Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam – Đỗ Tất Lợi.
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam (Tập 1).
//tracuuduoclieu.vn/gang-trau.html
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.