Tên Tiếng Việt: Hành biển.
Tên khoa học: Scilla maritima L. (Urginea scilla Steinh., Urginea maritima (L.) Baker), thuộc họ Măng tây (Asparagaceae).
Từ “Scilla” có nguồn gốc từ chữ Hy Lạp “Skilla” và được sử dụng để chỉ một giống hành ở châu Âu. “Urginea” xuất phát từ chữ La tinh “Urgere” có nghĩa là “dẹt”, để miêu tả hạt cây này có hình dạng dẹt. “Maritima” trong chữ La tinh có nghĩa là “biển”, liên quan đến việc cây này thường mọc ở vùng ven biển.
Hành biển là một loại củ có thể sống nhiều năm. Trung bình hành biển cao khoảng 18 – 20cm. Cây không có thân, lá mọc lên từ một củ to có chiều dài khoảng 10 – 15cm, củ của cây có thể nặng từ 3kg và đôi khi lên tới 7 – 8kg. Màu sắc của củ là nâu đỏ và có nhiều lá vẩy kết hợp. Lá của hành biển là hẹp, có chiều dài khoảng 30 – 40cm hoặc rộng hơn, và bề mặt lá không có lông. Lá của hành biển có vảy mỏng phía ngoài, màu nâu khô, trong khi vảy ở phần giữa dày, mềm và nhầy. Vảy ở giữa lá có bề mặt mịn hơn và được ép lại thành một cột dài trên thân cây, mang hoa cao tới 1m và thậm chí có thể cao tới 1,5m.
Vào mùa xuân, cây sinh ra lá hình mác dài và mọc thành cụm xung quanh thân cây. Đến cuối mùa hạ, lá khô đi và lúc đó cán mang hoa mới xuất hiện từ mặt đất. Hoa của cây mọc thành cụm và chỉ xuất hiện khi cây trụi lá. Thời gian hoa thường nở vào mùa hè, và cây có thể đạt chiều cao từ 30 – 150cm. Mỗi bắc lá chứa một hoa có chiều dài từ 1,2 – 1,5cm, có màu lục mốc. Mỗi bông hoa của cây có 3 lá đài và 3 cánh hoa cao 1cm, màu trắng đục. Hoa còn có 2 nhị được đính lưng và có bao phấn màu vàng ngắn, 3 lá noãn và cuống hoa dài 1,5cm. Cây trụi lá vào mùa hè và phát triển lá mới vào mùa thu đông. Quả của cây có hình dạng nang và có 3 góc, mỗi ngăn của nang chứa từ 3 – 4 hạt.
Ở Việt Nam, lá của hành biển rụng vào mùa hè và lại mọc trở lại vào mùa đông. Có hai loại hành biển phổ biến: một loại có vảy màu trắng và loại khác có vảy màu đỏ tím. Cả hai loại đều có tác dụng tương tự nhau, nhưng có sự khác biệt về hương vị. Loại hành biển có vảy đỏ thường được gọi là “Hành biển Tây Ban Nha” hoặc “Hành biển đực” và được trồng nhiều ở Anh. Trong khi đó, loại hành biển có vảy trắng thường được trồng ở Pháp, và loại “Hành biển cái” được trồng ở đảo Sicily và Malta, được ưa chuộng ở Anh.
Phân bố: Hành biển là một loại cây hoang mọc tự nhiên tại các bãi cát ven biển ở các vùng Địa Trung Hải, đặc biệt là ở các nước Bắc châu Phi như Angieri, đảo Sicily (Ý) và đảo Corse (Pháp). Thậm chí cây cũng có thể mọc xa hơn trong đất liền. Ở Việt Nam, trước đây không có hành biển, nhưng vào năm 1958, vài củ non đã được nhập về từ vùng Sukhumi (miền Nam Liên Xô cũ) để trồng. Mặc dù nhu cầu sử dụng cây này là ít, tuy nhiên ở nhiều nước, người ta sử dụng hành biển để diệt chuột và nhu cầu về củ hành biển lên đến vài trăm tấn mỗi năm.
Thu hái: Có thể trồng hành biển bằng hạt hoặc bằng củ non. Tuy trồng bằng hạt khó và mất 4-5 năm để thu hoạch, nhưng trồng bằng củ non chỉ cần để củ trong môi trường ẩm ướt, từ vảy giữa sẽ nảy mầm ra các củ nhỏ có thể được cắt bỏ để trồng. Củ hành biển được thu hái vào mùa thu sau khi cây đã ra hoa.
Chế biến: Thông thường, người ta chọn những củ to và bóc vảy mỏng khô, chỉ giữ lại vảy mẫm ở phần giữa. Sau đó, vảy được cắt thành những dải nhỏ hẹp và phơi khô dưới ánh nắng. Tuy nhiên, vì vảy chứa nhiều chất nhầy, việc phơi khô có thể khó khăn và nếu phơi quá lâu có thể gây mốc và làm giảm chất lượng của củ. Một phương pháp khác là hấp củ trong hấp hơi nước trong khoảng 5 phút ở nhiệt độ 105 – 110 độ C, sau đó phơi khô ngoài trời trong vài ngày. Cũng có thể sấy ở nhiệt độ 60 độ C. Sau khi hấp, củ hành biển dễ bảo quản hơn và nếu không hấp, củ có thể hút nước nên cần được để ở nơi khô ráo.
Người ta chủ yếu sử dụng củ của hành biển, hay còn gọi là Bulbus Scillae, cho các mục đích sử dụng. Tuy nhiên, trong một số ngành khác, cả cây hành biển cũng có thể được sử dụng.
Hành biển đã được nghiên cứu từ lâu, tuy nhiên vẫn còn nhiều khía cạnh về tác dụng của nó chưa được hoàn toàn giải thích.
Vào năm 1879, Merck đã chiết xuất ra từ hành biển ba chất được cho là hoạt chất và đặt tên là scilipicrin. Scilipicrin có dạng không định hình, màu vàng nhạt, rất đắng và tan trong nước. Tiếp theo là scilotoxin, cũng có dạng không định hình, không tan trong nước nhưng tan trong cồn, và có tác dụng bổ tim. Cuối cùng là scilin, có dạng tinh thể, tan trong cồn nhưng không có tác dụng. Sau đó, vào năm 1927, Stoll đã chiết xuất được hai chất glucoside khác gọi là scilaren A và scilaren B, còn được gọi là scilaroside A và scilaroside B. Ngoài ra, còn có scilaren C, tuy nhiên, thực tế chỉ là một hỗn hợp của scilaren A và scilaren B.
Ngoài các glycoside đã đề cập, hành biển còn chứa một hydrat carbon được gọi là sinistrin hoặc scilin, cùng với chất lipid, hai loại sterol và cholin.
Hành biển có vị ngọt và hắc đắng, không mùi, và có đặc tính mát. Cả củ và lá của cây đều có tính độc nhẹ. Hành biển đã được sử dụng trong một số sản phẩm dược phẩm nhờ vào các tính chất này. Các chiết xuất từ hành biển đã được sử dụng để làm thuốc với tác dụng hỗ trợ tim, giúp giảm các triệu chứng đờm và có tính chất tiêu viêm. Ở châu Âu và một số quốc gia ở châu Phi, hành biển cũng được sử dụng để ngâm trong nước hoặc làm sắc hoa để diệt sâu bọ.
Củ hành biển tươi có tác dụng gây kích thích tuần hoàn máu, gây đỏ da và có thể gây phỏng, đặc biệt khi tiếp xúc với niêm mạc. Tuy nhiên, chất gây kích thích tuần hoàn máu trong hành biển vẫn chưa được xác định chính xác. Một số tác giả đã đề xuất rằng oxalat canxi có thể là nguyên nhân gây kích thích này, tuy nhiên thực tế, người ta đã thử đắp lên da các tờ giấy thấm cồn đã lọc để loại bỏ tinh thể oxalat canxi, nhưng vẫn ghi nhận được tác dụng kích thích tuần hoàn máu.
Tác dụng trên tim
Hành biển có tác dụng tương tự như Dương địa hoàng, nhưng không có hiện tượng tích lũy trong cơ thể. Tác dụng của hành biển nhanh chóng, gây chậm mạch và tăng huyết áp. Tuy nhiên, ở liều độc, nó có thể gây tim đập nhanh, loạn nhịp và trong một số trường hợp, ngừng đập tim ở giai đoạn tâm thu.
Tác dụng thông tiểu
Hành biển có tác dụng tương tự như Dương địa hoàng (Digitalis), nhưng có cho rằng nó có tác dụng lựa chọn và tác động trực tiếp lên các cấu trúc của biểu mô thận. Nó không chỉ tăng thể tích nước tiểu mà còn làm tăng lượng ure được bài tiết.
Tác dụng trên bài tiết
Hành biển có khả năng kích thích tăng bài tiết dịch phế quản và mồ hôi.
Tác dụng chống oxy hóa và kháng khuẩn
Belhaddad và cộng sự (2017) tiến hành nghiên cứu đánh giá hoạt tính chống oxy hóa của chiết xuất methanol của củ Hành biển. Kết quả cho thấy trong củ Hành biển có chứa các thành phần hóa học gồm flavonoid, glycosid, tanin, hợp chất khử, anthraquinone kết hợp, anthocyanin, chất nhầy, triterpen và steroid. Các chất có trong củ Hành biển có tác dụng ức chế cao đối với xanthine oxidase, và đối với quá trình khử cytochrome.
Liều độc
Hành biển có thể gây viêm ống tiêu hóa, nôn mửa, tiêu chảy và làm mất sự bài tiết niệu. Do đó, không nên sử dụng củ hành biển trong trường hợp viêm thận hoặc viêm ruột. Nếu sử dụng quá liều hoặc sử dụng lâu ngày, có thể gây ngộ độc. Các triệu chứng của ngộ độc bao gồm tiểu máu, không thể bài tiết niệu, nôn mửa, tiêu chảy, nhịp tim nhanh và yếu, cảm giác bất an và có thể dẫn đến tử vong do tim ngừng hoạt động.
Liều dùng để điều trị long đờm và tăng bài tiểu: 0,1 – 0,3g hành biển mỗi ngày, không vượt quá 0,25g mỗi lần và không nên dùng quá 1g trong vòng 24 giờ.
Nếu sử dụng hoạt chất scilaren tách riêng, liều dùng là 0,0005 – 0,002g mỗi ngày dưới dạng viên, giọt hoặc tiêm.
Hành biển có thể được sử dụng và điều chế thành thuốc dưới dạng tươi hoặc khô, và cả hai hình thức này đều có hiệu quả tương đương. Thường thì hành biển được sử dụng chủ yếu trong mục đích diệt sâu bọ. Do tính vị và độc tính của Hành biển, nên các bài thuốc có chứa Hành biển không được lưu truyền. Hiện nay chưa có nhiều ứng dụng rộng rãi và công dụng của nó vẫn chưa được khám phá đầy đủ.
Dưới đây là những lưu ý cần nhớ khi sử dụng cây hành biển:
Hành biển là một loại thuốc có dược tính mạnh, do đó, việc sử dụng cần được tuân theo hướng dẫn chính xác. Tốt nhất là bạn nên tham khảo ý kiến của dược sĩ hoặc bác sĩ để biết thêm thông tin chi tiết về việc sử dụng hành biển.
Nguồn Tham Khảo:
- Đỗ Tất Lợi (2004). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. Nhà xuất bản Y học, Hà Nội.
- Chromatographic fractionation, antioxidant and antibacterial activities of Urginea maritima methanolic extract: //pubmed.ncbi.nlm.nih.gov/28603122/
- Insecticidal activity of ethanolic extracts of Urginea maritima (L.) Baker bulbs: //www.sciencedirect.com/science/article/abs/pii/S0926669099000151
- Rats in Egypt, and the Effect of Local Squill (Urgina-Scilla-Maritima): //www.cabdirect.org/cabdirect/abstract/19442901526
- Anti-insect Activity of Bufadienolides from Urginea maritima: //maltawildplants.com/ASPG/Docs/URGMT/AntiInsectActiivity.pdf
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.