Tên Tiếng Việt: Hồng môn.
Tên khác: Môn hồng; vĩ hoa tròn; buồm đỏ, hoa hồng hạc, hoa đuôi phụng, họa mi và hoa sơn dương.
Tên khoa học: Anthurium andraeanum Araceae.
Từ nguyên Chi Anthurium có nghĩa là đuôi hoa, dùng để chỉ spadix giống đuôi. Epic andraeanum cụ thể được đặt theo tên của Edouard F. Andre (1840-1911), một nhà biên tập thực vật và làm vườn người Pháp.
Hồng môn là loài cây một lá mầm sống lâu năm, ưa khí hậu ấm áp, râm mát và ẩm ướt, ví dụ như rừng nhiệt đới. Đặc trưng nhất của hồng môn là chiếc lá hình thoi có màu sắc rực rỡ và cụm hoa nhô ra được gọi là spadix.
Hồng môn là một loại cây thân thảo nhỏ, mọc thẳng, cao đến 40 cm, lá hình tim hoặc hình trái tim, cuống lá hình trụ dài 30 – 40 cm, cây có nhựa trong.
Hoa hồng môn mọc ở nách lá, cụm hoa dạng chùm. Cụm hoa bao gồm một cái đuôi màu vàng kem giống như cái đuôi và bông hoa màu đỏ tươi, rộng, phẳng và như sáp. Hoa có màu sáng (đỏ, hồng) và dài 8 – 15 cm, cụm hoa (spadix) dài 7 – 9 cm, có màu trắng hoặc vàng, mang nhiều hoa lưỡng tính nhỏ. Hồng môn ra hoa kéo dài quanh năm.
Quả hồng môn nhỏ, tròn, màu vàng được tạo ra dọc theo rãnh. Trái cây hiếm khi được quan sát thấy trên cây trồng trong nhà. Quả là một loại quả mọng có nhiều thịt.
Hồng môn có nguồn gốc từ Ecuador và tây nam Colombia, và du nhập ở các khu vực khác trên Thế giới. Nó được tìm thấy ở Caribê và Réunion. Nó được trồng làm cảnh dưới dạng nhiều giống lai hoặc làm vườn. Nó thường được sử dụng để làm hoa tặng.
Cây hồng môn sinh trưởng tốt ở đất ẩm, thoát nước tốt.
Vì cây hồng môn khá độc nên hiện tại chưa thấy tài liệu liên quan.
Cây hồng môn thường chứa chất độc gồm saponin và tinh thể canxi oxalat.
Trong một bài báo trên tờ New York Times từ năm 1992, Hortense Robinson, một nữ hộ sinh và một người chữa bệnh từ Belize, báo cáo việc sử dụng cây hồng môn trong xông hơi để chữa các chứng khó chịu của bệnh viêm khớp và thấp khớp bằng cách cắt lá và đun sôi trong một cái nồi và cho người ngồi trên ghế có chăn để đổ mồ hôi và dược tính vào cơ thể thông qua các lỗ chân lông mở. Ngoài ra, cô ấy cũng chỉ ra rằng nó hữu ích như một loại thuốc đắp chữa đau cơ và chuột rút bằng cách lấy lá và quấn quanh cổ hoặc lưng rồi đến cuối ngày thì bỏ lá đi.
Tuy nhiên hồng môn là cây khá độc, các tài liệu cổ truyền cũng chưa thấy có phương thuốc chứa dược liệu hồng môn, nên thận trọng trước khi dùng.
Saponin và tinh thể canxi oxalat trong cây hồng môn ở dạng kim nhỏ, có thể xâm nhập vào màng nhầy và gây kích ứng đau đớn.
Ngoài ra, cây hồng môn còn là là chất độc đối với tất cả các loài động vật có vú, có thể gây kích ứng nghiêm trọng ở miệng và cổ họng. Tiếp xúc với người gây ra ban đỏ, mụn nước, và nếu ăn phải, chảy nước bọt, khó nuốt và nôn mửa.
Năm 1989, NASA đã công bố nghiên cứu chi tiết khả năng loại bỏ độc tố khỏi không khí của một số loại cây trồng thông thường. A. andraeanum là một trong những loài thực vật được nghiên cứu, và kết quả cho thấy rằng Anthurium có thể giúp cải thiện chất lượng không khí trong nhà.
Chưa có báo cáo.
Chưa có báo cáo.
Khi nhai bất kỳ bộ phận nào của cây có thể dẫn đến đau rát môi, miệng, lưỡi và cổ họng. Đôi khi các phản ứng viêm cấp tính bao gồm phồng rộp và sưng tấy các mô có thể xảy ra.
Cảnh báo: Liên hệ cơ sở y tế khẩn cấp nếu môi hoặc lưỡi bị sưng hoặc khó thở hoặc khó nuốt để được xử trí kịp thời.
Nguồn Tham Khảo:
Kew World Checklist of Selected Plant Families.
“RHS Plantfinder – Anthurium andraeanum”. Royal Horticultural Society. Retrieved 12 January 2018.
Plants “Clean” Air Inside Our Homes (kilde NASA)
B. C. Wolverton; Rebecca C. McDonald; E. A. Watkins, Jr. “Foliage Plants for Removing Indoor Air Pollutants from Energy-efficient Homes”. Retrieved 2009-12-10.
Anthurium spp. 2013-10-03 at the Wayback Machine Poisonous Plants of North Carolina. North Carolina State University.
Anthurium. ITIS.
Govaerts, R. & Frodin, D.G. (2002). World Checklist and Bibliography of Araceae (and Acoraceae): 1–560. The Board of Trustees of the Royal Botanic Gardens, Kew.
“Anthurium Andraeanum” Missouri Botanical Garden.
Collette VE, Jameson PE, Schwinn KE, Umaharan P, Davies KM (2004) Temporal and spatial expression of flavonoid biosynthetic genes in flowers of Anthurium andraeanum. Physiol Plant 122:297–304. doi:10.1111/j.1399-3054.2004.00402.x
Linden ex André, Ill. Hort. 24: 43 (1877).
Jacques Fournet, Flora illustrated the flowering of Guadeloupe and Martinique , Gondwana editions, CIRAD2002 Volume 1 (ISBN 2-87614-489-1); Volume 2 (ISBN 2-87614-492-1)
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.