Tên Việt Nam: Ngọc trúc
Tên khác: Nữ ủy
Tên khoa học: Polygonatum officinale All hoặc Polygonatum odoratum Mill, họ Thiên môn Asparagaceae
Cây thảo, sống lâu năm, cao 40 – 60 cm. Thân rễ mọc ngang, chia nhiều đốt, màu trắng hoặc vàng nhạt. Thân khí sinh thường đơn độc, màu trắng ở phía dưới. Lá mọc so le, không có cuống, hình trứng, rộng 3 – 6 cm, dài 6 – 12 cm, gốc tròn, đầu nhọn, gân hình cung sít nhau, mặt trên màu xanh, mặt dưới màu trắng nhạt.
Hoa mọc ở kẽ lá, có cuống dài 1 – 1,4 cm, mỗi kẽ mọc 1 – 2 hoa màu trắng, hình chuông thõng xuống.
Quả mọng, hình cầu, quả khi chín có màu tím đen; hạt 3 – 6, màu vàng có chấm.
Phân bố
Cây Ngọc trúc có nguồn gốc từ Trung Quốc (phân bố chủ yếu ở Quảng Đông, Quảng Tây, Vân Nam). Ngày nay, loại dược liệu này được trồng là chính.
Ở Việt Nam, Ngọc trúc được trồng trong vườn nhà để làm thuốc ở các tỉnh như Lào Cai, Lai Châu và Hà Giang.
Thu hái, chế biến
Thân rễ cây Ngọc trúc được thu hái vào mùa thu, đào về, rửa sạch đất, cắt bỏ rễ con, phơi cho hơi khô, rồi đem ra lăn cho mềm, sau đó phơi hay sấy khô.
Ngọc trúc thường được chế biến thành các dạng sau:
Dạng thái phiến: Đem Ngọc trúc đã phơi khô thái phiến vát dài 3 – 5 cm, dày 2 – 5 cm.
Dạng tẩm mật ong: Lấy Ngọc trúc đã thái phiến tẩm đều với mật ong (10 kg Ngọc trúc thì dùng 1 – 1,5 kg mật ong) trong 30 phút, sao bằng lửa nhỏ đến khi có màu vàng, thơm, sờ không dính tay là được.
Dạng chưng: Ngọc trúc rửa sạch, đồ trong 6 – 8 giờ, ủ 1 ngày 1 đêm; tiếp tục làm như vậy 2 – 3 lần cho đến khi thuốc có màu đen, đem thái khúc dài 2 – 3 cm.
Dạng chế với rượu: Ngọc trúc rửa sạch, ủ mềm đủ 8 giờ cho mềm, thái khúc như trên, thêm rượu (10 kg Ngọc trúc dùng 1,5 kg rượu) và chưng 4 giờ. Sử dụng dụng cụ bằng đồng hoặc nhôm để đựng.
Bộ phận dùng của cây Ngọc trúc là thân rễ.
Theo tài liệu ở Trung Quốc, Ngọc trúc chứa các glucosid như convallarin, convallamarin, azetidin acid carboxylic, các flavonoid như vitextin, vitextin 2′ glucosid, saponarin acid chelidonic, các chất vô cơ Ca, P, K, Mg, Mn, Si.
Ngọc trúc còn chất nhầy odoranan, polygonum – fructan O, A B C D. Từ dịch chiết methanol đã loại chất béo của Ngọc trúc; Zaneczko Z; Jansson p. E- Sendra J đã chiết được một hỗn hợp các saponin steroid polyfurosid (I) và sản phẩm thuỷ phân do men của nó là odosprosid.
Ngọc trúc có vị ngọt, tính hàn, vào 2 kinh phế và vị, có tác dụng nhuận táo, tiêu đờm, dưỡng âm, mát huyết, sinh tân, trừ khát.
Ngọc trúc được dùng chữa miệng khô khát, ho khan, sốt nóng âm ỉ về đêm, mồ hôi trộm, ho lao, khó tiêu, kém ăn, tiểu nhắt, di tinh, dùng làm thuốc bổ trong trường hợp cơ thể suy nhược, và thuốc phòng các bệnh ở phụ nữ sau khi sinh.
Ngọc trúc còn dược dùng để chữa viêm chân răng có mủ (trong viên Lục vị hoàn gia giảm), và ho ra đờm loãng có khi có máu (trong Bổ phế thang gia giảm).
Chưa có tài liệu nghiên cứu.
Nếu căn cứ vào thành phần hóa học theo tài liệu cũ thì chất convallarin có tác dụng kích thích thận và tẩy mạnh, lúc đầu convallarin gây hạ huyết áp, nhưng sau đó tim đập chậm hơn và hô hấp chậm lại, gây co quắp và cuối cùng với liều vừa đủ gây ngưng tim ở thể tâm giãn, sau đó ngừng hô hấp.
Ngày dùng 6 – 12 g dạng thuốc sắc, dùng riêng hay phối hợp với các vị thuốc khác.
Chữa âm hư phát sốt, ho khan, miệng khô, khô họng, ra mồ hôi trộm, cơ thể suy nhược
Bài thuốc 1: Dùng các loạt thảo dược sau: Ngọc trúc 16 g; Mạch môn 12 g, Sa sâm 12 g; Cam thảo dây 8 g. Sắc uống, mỗi ngày một thang.
Bài thuốc 2: Sử dụng các loại thảo dược như: Ngọc trúc 12 g, Sinh địa 12 g, Mạch môn 12 g, Sa sâm 12 g; Đường phèn 20 g, sắc uống mỗi ngày một thang hoặc làm viên uống.
Chữa lao phổi
Nguyệt hoa thang gia giảm: Ngọc trúc 8 g; A giao, Thiên môn, Mạch môn, Sinh địa, Hoài sơn, phù bình, mỗi vị 12 g; bách bộ, bách hợp, bối mẫu, mỗi vị 8 g. Sắc uống, mỗi ngày một thang.
Bổ phế thang gia giảm: Ngọc trúc, Bách bộ chế, Bạch truật, Mạch môn, Hoài sơn, mỗi vị 12 g; Đảng sâm 16 g, ngũ vị tử 6 g. Sắc uống, mỗi ngày một thang.
Chữa viêm màng phổi do lao (Sa sâm mạch đông thang)
Ngọc trúc 16 g; Bạch thược, Sa sâm, Mạch môn, Địa cốt bì, mỗi vị 12 g; Bối mẫu, Trần bì, mỗi vị 6 g, Ngân sài hồ 8 g; Sắc uống, mỗi ngày một thang.
Chữa viêm khớp dạng thấp
Ngọc trúc 400 g; hoài sơn, Đan sâm, Hà thủ ô đỏ, mỗi vị 400g; Đương quy 2000 g; Đơn bì, Mạch môn, Bạch linh, Trạch tả, mỗi vị 200 g; Chỉ thực, Thanh bì, Thù nhục, mỗi vị 100 g. Tán nhỏ các vị thuốc, dùng mật ong hoặc sirô luyện thành viên 5 g, uống 4 – 6 viên mỗi ngày.
Chữa mắt đau đỏ, hoa mắt, quáng gà
Ngọc trúc 12 g; Cúc hoa, Sinh địa, Thảo quyết minh sao, Huyền sâm, mỗi vị 10 g; bạc hà 2 g. Sắc uống và xông hơi.
Một số lưu ý khi sử dụng cây Ngọc trúc: Người âm thịnh dương suy, tỳ hư đờm thấp ứ trệ không dùng được.
Nguồn Tham Khảo:
Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – tập 2 (Tr. 397)
Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam (Tr. 834)
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.