Tên Tiếng Việt: Sòi.
Tên khác: Sòi xanh; Ô cửu; Ô thụ quả; Ô du; Thác tử thụ; Cửu tử thụ.
Tên khoa học: Sapium sebiferum (L.) Roxb.
Sòi là cây thân gỗ cao từ 4-6m. Thân màu xám, lá mọc so le, rụng lá, hình bầu dục, dài 3-7cm. Đầu lá thuôn dài, cuống lá dài. Hoa màu trắng hay vàng, mọc ở nách lá hoặc đầu cành. Hoa cái rất nhiều, ở gốc, và hoa đực ở ngọn. Lá nhọn, cuống lá dài, quả hình cầu. Quả hình cầu, đường kính 12mm, khi trưởng thành màu tím đen, có 3 buồng, mỗi buồng có một hạt hình bầu dục. Trong hạt có dầu, ngoài hạt còn có một lớp sáp trắng gọi là bơ hay mỡ thực vật. Thời kỳ ra hoa tháng 3-4, thời kỳ đậu quả tháng 10-12.
Cây Sòi mọc hoang khắp nơi trên đất nước ta. Ở miền Bắc và miền Trung, chúng thường được trồng để nhuộm lá bằng lụa hoặc màu đen sa tanh. Ngoài ra, cây còn được trồng rộng rãi ở Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và một số nước Đông Nam Á như một loại hạt có dầu.
Cây Sòi ưa sáng, mau lớn, sống được ở nhiều loại đất. Cây thường mọc ở rừng thứ sinh, rừng bạch dương, đồi núi. Cây này mỗi năm cho nhiều trái, tái sinh tự nhiên từ hạt, thân tự nhiên sau khi cắt từ hạt và thân.
Hai vị thuốc của cây Sòi là vỏ rễ đã phơi hay sấy khô, có tên là vỏ rễ Ô Cửu. Dầu hạt vỏ trai là hỗn hợp chất sáp bao bọc lớp ngoài của hạt và chiết xuất dầu từ hạt ngao, gọi là Ô Cửu Chi hay Bí Du.
Để lấy hạt, người ta hái vào mùa thu, cuối thu. Quả hái về đem phơi nắng, giã nhỏ lấy hạt. Hạt được đun nóng để làm tan chảy lớp sáp bao phủ bên ngoài hạt, và khi nó nguội đi, phần sáp đông đặc lại là loại sáp tốt nhất. Các hạt còn lại sau đó được nghiền và ép lấy dầu lỏng.
Sáp và dầu có thể tách rời hoặc trộn lẫn với nhau. Ở Trung Quốc, lớp sáp bên ngoài được gọi là derriere, và dầu ép từ hạt được gọi là bí xanh hoặc cuu yu. Nếu ép cả lớp ngoài và hạt thành một hỗn hợp chung thì gọi là mao trùng.
Vỏ rễ và vỏ cây được thu hái quanh năm, thái nhỏ và phơi khô. Lá thường được dùng tươi.
Sòi có thể dùng thay thế bơ ca cao để làm thuốc đạn, xà phòng, trộn với sáp ong để làm nến hoặc chữa một số bệnh ngoài da. Vỏ rễ được điều trị theo kinh nghiệm đối với các chứng u cục, tích tụ và não úng thủy, các triệu chứng như chướng bụng, khó tiểu. Thân và lá dùng làm thuốc chữa viêm da có mủ, lở ngứa, lở loét, chai sần.
Trong vỏ rễ chiết xuất ra chất có tên là pholoraxetophenone 2-4 dimethyl ether, có tác dụng sát trùng đường ruột. Một chất có thể chiết xuất khác là anthocyanins.
Lá cây Sòi có chất béo, vitamin E, tanin, axit ellagic, corilagin, axit gallic,…
Thành phần của dầu vỏ Sòi có chứa axit linoleic, axit linolenic, các axit amin và vitamin B khác nhau. Phần khô còn lại sau khi chiết xuất dầu chứa nhiều protein, có thể dùng làm phân bón hoặc thực phẩm.
Sòi có vị đắng, tính ấm, có độc, có tác dụng sát trùng, giải độc, lợi tiểu, nhuận phế, thông phế, trục thủy (loại nước tích tụ trong cơ thể).
Thử nghiệm in vitro cho thấy dịch chiết từ vỏ rễ Sòi có tác dụng ức chế nhiều tác nhân gây bệnh thông thường như Staphylococcus faecalis, Klebsiella pneumoniae và Streptococcus pneumoniae, nước sắc lá Sòi có tác dụng ức chế nhiều loại Staphylococcus, Shigella và Pseudomonas aeruginosa kháng lại các loại thuốc kháng sinh thường dùng.
Chiết xuất phenolic của lá cây Sòi ức chế phù nề da do viêm da tiếp xúc dị ứng và giúp cải thiện các triệu chứng. Tác dụng này có thể được giải thích bởi cơ chế chống viêm và chống oxy hóa. Các nghiên cứu khác cũng đã chứng minh tác dụng chống oxy hóa mạnh của lá điệp tươi. Nó được kỳ vọng là nguồn thảo dược sản xuất chất chống oxy hóa, hỗ trợ điều trị nhiều bệnh liên quan.
Liều dùng:
Người lớn uống 10-12 gam bột mỗi ngày (có thể dùng tới 50-60 gam).
Trẻ em dùng trung bình 5-10 gam.
Thường là 7-10 ngày.
Điều trị mụn nhọt, mẩn ngứa, chảy nước vàng
Dầu hạt sòi (cả sáp và nhân) 100g, Hồng đơn 50g, nước 100g.
Đun dầu và nước đến khi nóng thì cho hồng vào, đảo đều rồi đun sôi. Thêm nước và nấu cho đến khi hồng chuyển màu. Sử dụng thuốc mỡ này trên mụn trứng cá, mạch lươn.
Điều trị não úng thủy, chướng bụng, ăn uống thiếu chất
Vỏ rễ cây sòi chỉ lấy vỏ lụa khô, tán nhỏ. Dùng nước vo gạo để vo thành những viên tròn cỡ hạt đậu xanh. Hoặc dùng táo đen Trung Quốc (một quả táo đen đun với 6 phần nước cho đến khi nhão, rây bỏ hạt). Trộn bột vỏ rễ với đại táo thành một viên gọi là ô táo hoàn.
Uống 10 – 20 gam thuốc trên mỗi ngày.
Phù, cổ trướng, táo bón, giữ nước hoặc no lâu, không ăn được
Màng rễ Sòi (lớp trắng ở trong), hạt Cau, Mộc thông, mỗi thứ 12 gam, sắc uống.
Xử lý rắn cắn
Lá hoặc rễ tươi giã nát lấy nước uống, đắp chữa rắn cắn.
Điều trị táo bón
Dầu hạt sòi trắng, 1 muỗng canh, uống trong ngày.
Chữa bệnh sán máng
Lá Sòi 8-30g sắc uống. Sử dụng trong vòng 20 – 30 ngày.
Sòi có tính lợi tiểu và làm sạch mạnh nên những người gầy yếu không nên ăn.
Nguồn Tham Khảo:
Đỗ Tất Lợi (2004). Những cây thuốc và vị thuốc Việt Nam. NXB Y học, Hà Nội
Võ Văn Chi (2012). Từ điển Cây thuốc Việt Nam, tập 2. NXB Y học, Hà Nội.
Đỗ Huy Bích, Đặng Quang Chung và cs. (2004). Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập 2. NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
Fu R, Guo Y, Zhang Y, Peng T, et al, (2015), “Phenolic composition and effects on allergic contact dermatitis of phenolic extracts Sapium sebiferum (L.) Roxb. leaves”, Journal of Ethnopharmacology, volume 162 pp. 176-180
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.