Tên tiếng Việt:
Sơn nại.
Tên khác:
Địa liền.
Tên khoa học: Kaempferia galanga L.
Thuộc họ: Zingiberaceae (Gừng).
Sơn nại là cây thân thảo, thuộc họ gừng, sống lâu năm, không có thân. Thân rễ gồm nhiều củ nhỏ bám vào nhau, hình trứng.
Lá 2 hoặc 3 mọc sát mặt đất, hình trứng, phía cuống hẹp lại thành một cuống dài độ 1 – 2 cm, mặt trên màu xanh lục và nhẵn, mặt dưới có lông mịn, có hai mặt đều những điểm nhỏ, dài rộng gần bằng nhau, chừng 8 – 10 cm, rộng 6 – 7 cm.
Sơn nại có cụm hoa không cuống, mọc ở giữa ẩn trong bẹ lá, lá bắc hình mũi mác nhọn, gồm 6 – 12 hoa màu trắng với những đốm màu tím ở giữa xếp thành hình bánh xe. Cây quanh năm xanh tốt. Mùa hoa tháng 5 – 7.
Chi Kaempferia L. có 9 – 10 loài ở Việt Nam. Sơn nại phân bố ở Ấn Độ, Malysia, Indonesia, Philippin, Thái Lan, Lào, Campuchia và Trung Quốc.
Ở Việt Nam, cây Sơn nại mọc hoang và được trồng khắp các địa phương.
Từ tháng 12 sau khi cây bị tàn lụi, người ta đào củ về hoặc để đến tháng giêng. Củ đào về rửa sạch sạch đất cát, thái thành miếng mỏng, sấy lưu huỳnh qua một đêm rồi phơi hoặc sấy nhẹ đến khô. Có những nơi người ta chỉ đào củ về, rửa sạch phơi khô.
Bộ phận sử dụng của Sơn nại là thân rễ, thu hái vào mùa đông xuân, rửa sạch phơi khô, không được sấy bằng than vì sẽ làm củ bị đen và kém mùi thơm.
Thân rễ địa liền khô chứa 2,4-3,9% tinh dầu, thành phần chủ yếu trong tinh dầu là acid p-methoxycinamic, ethylcinamat và p-methoxy ethylcinamat.
Ngoài ra thân rễ còn có các hợp chất n – pentadecan, A3 – caren, camphen…
Theo Đông y, sơn nại có vị cay, tính ôn, quy vào 2 kinh Tỳ và Vị, có tác dụng ôn trung tán hàn, trừ thấp, tiêu thực, bại khí độc.
Địa liền thường được dùng để chữa ngực bụng đau lạnh, tiêu chảy, thuốc kiện vị giúp tiêu hoá chữa chứng ăn uống khó tiêu, đau dạ dày, cảm, ho, nôn mửa, hen suyễn.
Liều dùng
Mỗi ngày dưới 3 – 6 g dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột, thuốc viên hay thuốc hãm.
Sơn nại 1 kg, rau má 1 kg, thổ phục linh 1 kg, cam thảo 0,5 kg. Tất cả phơi khô tán bột. Mỗi ngày uống 2 – 4 g. Điều trị nhức đầu, cảm sốt, táo bón kinh niên và ăn không tiêu.
Viên bạch – địa – can gồm sơn nại 0,03 g, bạch chỉ 0,1 g, cát căn 0,12 g đã được ứng dụng trong điều trị làm sàng cho kết quả tốt. Thuốc có tác dụng hạ sốt rõ rệt, giảm đau, kháng khuẩn, ít gây tác dụng phụ nên an toàn cho người lớn và trẻ em. Dùng ngoài, rượu ngâm riêng sơn nại hoặc phối hợp với một số vị thuốc khác như huyết giác, thiên niên kiện, địa hồi, quế chi, long não dùng xoa bóp, chữa đau nhức, tê phù hoặc ngậm chữa đau răng (không được uống).
Ngoài ra, tinh dầu Sơn nại còn để chế nước hoa, mỹ phẩm, làm vị điều hương trong thực phẩm.
Ở philippin, nước sắc Sơn nại chữa ăn uống khó tiêu, sốt rét. Lá Sơn nại giã nát, hơ nóng, đắp chữa tê thấp. Ở Malaysia, thân rễ Sơn nại được dùng để chữa cao huyết áp, lở loét, hen suyễn. Lá và thân rễ cây Sơn nại được nhai ngậm giúp chữa ho và đau họng. Thân rễ dùng riêng chữa cảm lạnh. Một vài nơi dùng lá và thân rễ Sơn nại làm rau ăn sống.
Trong y học hiện đại, Sơn nại đã được chứng minh có nhiều lợi ích đối với sức khỏe con người.
Tác dụng giảm đau: Thực nghiệm tiêm ung dịch acid acetic 0,6% vào xoang bụng chuột nhắt trắng để gây đau nội tạng là những ơn đau quặn, địa liền dùng với liều 5 g/kg thể trọng, một giờ sau khi dùng thuốc bằng đường uống đã làm giảm 69% số lần xuất hiện cơn đau.
Tác dụng chống viêm: Thực nghiệm trên mô hình gây phù bàn chân chuột cống trắng bằng kaolin, Sơn nại và tinh thể chiết từ cây này có tác dụng chống viêm rõ rệt.
Tác dụng hạ sốt: Sơn nại với liều 5 g/kg bằng đường uống giúp hạ sốt cho thỏ bị gây sốt bằng pyrogen.
Sơn nại 2 – 4 g, dưới dạng thuốc sắc, thuốc bột, thuốc viên hay pha chế như chè mà uống.
Kiêng kỵ: Âm hư, thiếu máu hoặc vị có hoả uất không dùng.
Chữa ăn uống khó tiêu, đau dạ dày, đau thần kinh
Sơn nại 2 g, quế chi 1 g, đem tán nhỏ chia làm 3 lần uống trong một ngày, mỗi lần 0,5 hay 1 g bột.
Chữa ngực bụng lạnh đau
Sơn nại, đinh hương, đương quy, cam thảo, với lượng bằng nhau, tán nhỏ thành bột, trộn với hồ làm viên bằng hạ ngô. Mỗi lần uống 10 viên.
Chữa cảm sốt nhức đầu
Dùng 5 g Sơn nại, 10 g cát căn và 5 g bạch chỉ, đem nghiền mịn và làm viên uống.
Trị ho gà
Dùng 300 g sơn nại, 1000 g rau sam tươi, 300 g lá chanh, 500 g tía tô, 1000 g rau má tươi và 1000 g vỏ rễ dâu đã được tẩm mật ong và sao. Tất cả các vị thuốc được rửa sạch, sau đó cho vào nồi và thêm 12 lít nước và đun sôi trên ngọn lửa nhỏ. Sau khi cạn còn 4 lít cho vào bình thủy tinh, bảo quản và dùng dần. Mỗi ngày cho trẻ uống từ 15 – 30 ml.
Điều trị táo bón kinh niên, nhức đầu, ăn không tiêu, cảm sốt
Sử dụng 1000 g địa liền, 1000 g thổ phục linh, 1000 g rau má tươi và 500 g cam thảo. Đem phơi khô và nghiền thành bột. Mỗi ngày hòa tan 2 – 4 g với nước và uống.
Phụ nữ có thai, người có bệnh loét bao tử không dùng.
Tránh nhầm lẫn với cây Kaempferia angustifolia mà nhân dân Phú Thọ cũng gọi là địa liền.
Nguồn Tham Khảo:
- //tracuuduoclieu.vn/dia-lien.html
- //suckhoedoisong.vn/
- Đỗ Huy Bích và cộng sự (2006), Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam, tập I, Trang 782 – 785.
- Đỗ Tất Lợi, Cây thuốc và vị thuốc VN. Trang 365 – 366.
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.