Tên tiếng Việt: Sui
Tên khác: Xui; Nong; Nỗ tiễn tử; Cây thuốc bắn
Tên khoa học:Antiaris toxicaria (Pers.) Lesch.
Họ: Moraceae (Dâu tằm)
Cây sui là cây lớn với gốc rất to và có thể đạt đến chiều cao 30 m. Lá sui mọc đối xứng với cuống lá dài 8 – 10 cm. Chiều dài phiến lá chừng 6 cm, chiều rộng khoảng 5,5 cm, cả hai mặt lá hơi nhám.
Cụm hoa có cùng gốc, mọc ở kẽ lá. Hoa đực và hoa cái đều mọc trên một đế hoa, xung quanh có tổng bao. Trong đó, nhiều hoa đực mọc tụ lại trên đế hoa hơi khum lên, bao quanh là tổng bao gồm nhiều lá bắc; còn hoa cái thì mọc đơn độc.
Quả cây sui là quả thịt, dày khoảng 12 mm với chiều dài 18 mm. Hạt sui có hình trứng, dài 13 mm, rộng 8 mm.
Cây sui mọc hoang khá nhiều ở miền Nam Trung quốc (Hải Nam), Ấn Độ, Indonesia, Malaysia. Ở Việt Nam, có thể tìm thấy cây sui mọc tự nhiên ở các vùng núi.
Sui có thể được thu hái quanh năm nhưng cần rất cẩn thận trong quá trình thu hoạch. Người ta băm vỏ cây để thu lấy nhựa cây chảy ra. Nhựa này có độc, người dân ngày xưa thường tẩm lên mũi tên để săn bắt thú rừng. Bên cạnh đó, vỏ cây sui còn được dùng làm quần áo, chăn hoặc túi đựng đồ.
Nhựa cây, vỏ cây.
Theo nghiên cứu, trong nhựa cây sui có chứa 2 glucoside tim mạnh và độc là α – antiarin và β – antiarin.
α – antiarin có công thức phân tử là α – C29H42O11.4H2O. Chất này có dạng bột tinh thể, phản ứng trung tính; tan trong 250 phần nước ở 20°C và 27 phần nước sôi, 70 phần rượu 85°, 2800 phần eter. α – antiarin nóng chảy ở 242°C (một tài liệu khác ghi là 220 – 225°C), độ quay cực αD là -4°. Thủy phân antiarin bằng HCl loãng trong môi trường rượu đun sôi tạo thành đường antiarose (hay d gulometylose C6H12O5) và antiarigenin có nhiệt độ nóng chảy 180°C.
β – antiarin có công thức phân tử là β – C29H42O11.3H2O với tinh thể hình kim hoặc hình trụ. Nhiệt độ nóng chảy là 225°C (có tài liệu nói 206 – 207°C). Thủy phân β – antiarin thu được L – rhamnose, antiarigenin.
Thuốc thử kiliani (acid sulfuric + Fe (III) sulfat) hòa tan antiarin cho dung dịch màu vàng, ngả vàng cam.
Khi thủy phân mạnh, cả α – antiarin và β – antiarin đều tạo thành dihydroantiagenin. Do vậy, các nhà khoa học Tschesche, Haupt (1936) và Reichstein (1948) cho rằng α và β – antiarin chỉ khác nhau phần đường và antiarose (d gulometylose) là đồng phân của L – rhamnose.
Nhân dân lưu truyền rằng nhựa sui uống vào không độc, có thể chữa đau bụng và gây đại tiện mạnh nhưng việc sử dụng rất nguy hiểm, có thể chết người.
Thịt thú rừng khi bị săn bắt bằng nhựa cây sui có thể ăn được.
α – antiarin và β – antiarin rất độc và tác dụng mạnh đối với tim (hơn cả digitalis), trong đó β – antiarin có tác động mạnh hơn α – antiarin (theo nghiên cứu của Trần Khắc Khôi – 1937).
Tiêm dưới da chó nước sắc cây mã tiền Strychnos ovalifolia hòa với nhựa sui gây thở gấp, thở khó, nôn, co quắp rồi chết.
Do độc tính của sui, người ta chỉ sử dụng loài thực vật này để săn bắt thú rừng lớn, may quần áo, chăn…
Làm chăn, quần áo
Ngâm vỏ cây sui vài ngày trong hồ/ao rồi bóc lấy vỏ, dùng vỏ đó may thành chăn, quần áo. Lưu ý tay chân không được có vết thương khi dùng vỏ sui.
Săn bắt thú rừng lớn
Tẩm nhựa sui lên mũi tên để săn bắt thú rừng lớn.
Không để nhựa sui dính vào các vết thương, vết loét do độc tính vào máu gây độc. Nhựa sui gây kích ứng da mạnh và có thể gây viêm mắt. Rửa sạch và gặp bác sĩ ngay nếu vô tình nhựa sui dính vào da/mắt.
Khi có các triệu chứng ngộ độc nhựa sui (thở gấp, thở khó, buồn nôn, nôn, rối loạn nhịp tim…), cần đưa bệnh nhân đến bệnh viện sớm nhất có thể.
Chưa có nghiên cứu đầy đủ về tác dụng dược lý của cây sui, do đó tuyệt đối không tự ý sử dụng cây sui để trị bệnh vì có thể gây độc rất nguy hiểm.
Nguồn Tham Khảo:
Những Cây thuốc và Vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi)
//tracuuduoclieu.vn/sui.html
//www.thuocdantoc.org/duoc-lieu/cay-sui
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.