Tên tiếng Việt:
Thạch lựu bì.
Tên khác:
Vỏ quả lựu; Thạch lựu xác; Toan lựu bì; Toan thạch lựu bì.
Tên khoa học:
Punica granatum L.
Thạch lựu cao khoảng 2 – 3m, thuộc loài cây nhỏ hoặc cây nhỡ. Vỏ thân cây mỏng, màu xám; cành cây mảnh khảnh và đôi khi có gai. Lá Thạch lựu thường tụ thành cụm gồm nhiều lá mọc đối nhau. Lá hình mác thuôn, rộng 1 – 2cm, dài khoảng, 5 – 6cm, đầu tù hoặc hơi nhọn, gốc thuôn, mép nguyên, hai mặt nhẵn bóng, mặt trên màu sẫm hơn. Cuống lá ngắn; lá kèm hình chỉ và rất nhỏ.
Hoa Thạch lựu màu đỏ, màu vàng hoặc màu trắng, mọc đơn độc ở kẽ lá. Đài hoa là 6 phiến dày màu đỏ nhạt, dính liền ở phần dưới của thành ống ngắn. Tràng hoa cũng gồm 6 cánh nhăn nheo, mỏng manh. Hoa Thạch lựu có rất nhiều nhị; bầu 2 tầng, tầng dưới có 3 – 4 ô và tầng trên 6 – 7 ô với rất nhiều noãn.
Quả mọng, to khoảng chừng nắm tay người lớn, có 4 – 5 lá đài tồn tại ở đỉnh. Vỏ quả dày, màu lục và chuyển sang màu vàng lốm đốm đỏ nâu khi chín. Bên trong quả có 8 ngăn xếp thành hai tầng, tầng dưới 3 ngăn, tầng trên 5 ngăn, được ngăn cách nhau bởi các màng mỏng. Quả có rất nhiều hạt màu hồng với vỏ ngoài trong suốt, mọng nước và ăn được.
Thạch lựu là loài cây ưa sáng, có biên độ sinh thái rộng, có thể chịu được nhiệt độ từ -10°C đến 40°C. Tuy nhiên, khí hậu nóng ẩm ở vùng nhiệt đới là thích hợp nhất đối với cây. Cây sinh trưởng tốt trên nhiều loại đất, nhất là đất giàu kali.
Phân bố:
Thế giới: Thạch lựu có nguồn gốc từ Afghanistan và Iran, hiện nay cây được trồng rộng rãi trên khắp các vùng cận nhiệt đới và nhiệt đới, đặc biệt là ở Nhật Bản, Trung Quốc, các nước Nam Á và Đông Nam Á.
Việt Nam: Cây được trồng nhiều ở một số tỉnh thuộc vùng đồng bằng trung du Bắc Bộ và các tỉnh phía nam.
Thu hái:
Thu hoạch vỏ thân và vỏ rễ quanh năm bằng cách đào rễ, bóc bỏ lõi và chỉ lấy vỏ, sấy hoặc phơi khô.
Thu hoạch quả Thạch lựu vào tháng 7, bóc lấy vỏ quả, sau đó bỏ màng trong rồi sấy khô.
Chế biến:
Đồ vỏ đã phơi khô đến khi mềm, rồi thái mỏng và sao sơ qua.
Bảo quản: Nơi khô ráo, tránh ánh sáng và ẩm mốc. Không để dược liệu lâu quá 2 năm (tốt nhất là dưới 1 năm).
Vỏ quả, vỏ thân và vỏ rễ Thạch lựu.
Vỏ thân, vỏ cành và vỏ thân Thạch lựu chứa khoảng 22% tannin (gồm acid punicotanic, acid digalic hoặc galatanic).
Ngoài ra, trong vỏ còn có 0,5 – 0,7% alcaloid toàn phần gồm các hoạt chất pelletierin, methylpelletierin, pseudopelletierin và isodopelletierin (tỷ lệ này có thể thay đổi tùy theo cách chăm sóc cây, điều kiện thu hái và bảo quản). Isopelletierin và pelletierin có hoạt tính trị giun sán cao.
Vỏ quả chứa khoảng 20 – 30% tannin, ngoài ra còn có granatin, isoquercetin, acid ursolic và acid betulic.
Vỏ rễ Thạch lựu chứa 2,5-di-O-galloyl-4,6-O(S)hexahydroxydiphenoyl-D-glucuronic acid, diellagilacton, các alcaloid hygrin và norhygrin…
Vỏ quả Thạch lựu có vị chua chát, tính ấm, có độc; tác dụng khu trùng, sáp trường, chỉ huyết.
Rễ và vỏ rễ lựu có vị đắng, chát; tính ôn, có độc, có tác dụng sát trùng, trừ sán, sáp trường, chỉ đới.
Pelletierin, vỏ rễ và vỏ thân cây lựu đều được dùng làm thuốc diệt sán, nhưng hiện nay pelletierin ít được dùng vì quá độc. Thường dùng vỏ rễ, vỏ thân tươi, vừa mới thu hoạch vì trong vỏ, pelletierin ở dạng muối tannat ít độc đối với cơ thể người, lại có hiệu lực diệt sán cao. Nếu dùng vỏ khô, trước khi pha chế cần ngâm trong nước vài giờ.
Ngoài ra, vỏ thân và vỏ rễ còn được người dân dùng làm thuốc ngậmchữa đau răng; vỏ quả hạ thổ dùng để chữa kiết lỵ.
Trị giun sán
Từ xa xưa, người dân ở Trung Quốc và châu Âu đã biết dùng vỏ rễ Thạch lựu để trị bệnh giun sán ký sinh đường tiêu hoá. Hoạt chất isopelletierin và pelletierin có trong vỏ thân và vỏ rễ Thạch lựu là hai thành phần chính có tác dụng diệt giun sán, đã được chứng minh qua nhiều nghiên cứu.
Tuy nhiên, do độc tính quá cao nên hiện nay ít được sử dụng trong điều trị lâm sàng. Ở người, dùng pelletierin với liều 0,5 – 0,6g có thể gây hoa mắt, chóng mặt, mệt lả, buồn nôn, tiêu chảy. Để tăng cường hiệu quả diệt sán, đồng thời giảm độc tính, người ta thường dùng dạng tannat pelletierin vì dạng này không hòa tan trong dịch ruột nên không bị hấp thu nhanh chóng vào máu, đồng thời tăng nồng độ tiếp xúc với sán.
Chống xuất huyết
Trong thí nghiệm trên thở, dịch chiết vỏ rễ lựu trong nước cho tác dụng thúc đẩy quá trình đông máu.
Kháng khuẩn
Nước sắc vỏ lựu có tác dụng ức chế các vi khuẩn: Escherichia coli, Bacillus dysenteriae, B.pyocyaneus, B.typhi, Streptococcus aureus.
Ngoài ra, dịch chiết từ vỏ lựu với nồng độ 10g/Iít có khả năng chống các chủng nấm gây bệnh cho cây lúa và cây mía là Colletotrichum falcatum Went và Piricularia oryzae Cav. Khi cho thỏ uống dịch chiết này 2 lần/ngày cho tác dụng cầm tiêu chảy.
Chống oxy hoá
Trong vỏ lựu chứa nhiều hoạt chất chống oxy hóa, giúp loại bỏ các gốc tự do gây hại đến tim, trì hoãn tiến trình lão hoá, giảm nguy cơ ung thư và loại bỏ những độc tố tích tụ trong cơ thể.
Các nhà khoa học ở Anh đã chứng minh được tác dụng điều trị bệnh Alzheimer và Parkinson của punicalagin – hoạt chất chiết từ vỏ lựu. Punicalagin có tính chất chống oxy hoá, ức chế quá trình viêm gây sưng trong các tế bào não, dẫn đến ngăn chặn nguy cơ tổn thương các tế bào này.
Liều dùng vỏ thân hoặc vỏ rễ: Dạng nước sắc 30 – 40g.
Liều dùng vỏ quả: 15 – 20g/ngày sắc với 400ml nước còn 100ml thêm đường và tinh dầu thơm cho dễ uống, uống một lần trong ngày.
Trị giun sán
Theo dược thư Pháp
Ngâm 60g Thạch lựu bì khô tán nhỏ vào 750g nước cất trong 6 giờ, sau đó sắc đến còn 500g rồi gạn lọc. Chia thuốc thành 2 – 3 lần, uống vào sáng sớm và mỗi liều cách nhau nửa giờ. 2 giờ sau khi uống liều cuối cùng thì dùng 1 liều thuốc tầy. Cần nằm nghỉ khi uống thuốc để đỡ mệt.
Phối hợp với thuốc tẩy
Sắc các vị thuốc: Vỏ rễ lựu 40g; đại hoàng, hạt cau, mỗi vị 4g với 750ml nước đến khi còn 300 ml. Chia thành 2 – 3 lần và uống vào buổi sáng sớm lúc đói. Lưu ý phải nhịn đói vào tối hôm trước, khi uống cần nằm nghỉ. Đợi khi nào thật buồn đi ngoài thì nhúng hẳn mông vào một chậu nước ấm để sán ra hết.
Trị lỵ gây tiêu chảy lâu ngày
Sắc với nước: Vỏ quả lựu, bạch truật, cam thảo, đảng sâm, mỗi vị 5g; bào khương 3g rồi uống.
Trị tiểu són, tiểu gắt
Sắc uống 20g vỏ thân Thạch lựu và 20g vỏ rễ dâu 20g.
Thạch lựu bì có độc tính, vì vậy không dùng vị thuốc này cho trẻ em, phụ nữ có thai hoặc đang cho con bú, người có sức khoẻ yếu hoặc đang mắc các bệnh đường tiêu hoá.
Thạch lựu bì là một vị thuốc thường được dùng trong Đông Y. Tuy có nguồn gốc từ thiên nhiên nhưng Thạch lựu bì có chỉ định, chống chỉ định và tác dụng phụ. Không nên tự ý sử dụng hoặc nghe theo bài thuốc kinh nghiệm, nên đến bác sĩ để hiểu rõ tình trạng cơ thể và tham vấn ý kiến.
Nguồn Tham Khảo:
1. Những Cây thuốc và Vị thuốc Việt Nam (Đỗ Tất Lợi)
2. Sách “Cây thuốc và động vật làm thuốc ở Việt Nam – Tập 1 và 2”
3. Báo Sức khoẻ và đời sống:
- //suckhoedoisong.vn/loi-ich-suc-khoe-cua-vo-qua-luu-it-nguoi-biet-169130088.htm
- //suckhoedoisong.vn/hop-chat-trong-vo-qua-luu-chan-nguy-co-ton-hai-te-bao-nao-16984871.htm
Mong rằng với những thông tin của bài viết sẽ giúp bạn hiểu hơn về các loại dược liệu và cách sử dụng chúng đúng cách nhé. Hãy nhớ hỏi ý kiến của chuyên gia, bác sĩ cụ thể trước khi sử dụng các vị thuốc thảo dược nhé. Thông tin chỉ mang tính chất tham khảo chúng tôi không chịu trách nhiệm về nội dung này.